80. Sư đoàn 341- đoàn Bộ Binh SÔNG LAM - Biên giới Tây Nam
Mấy ngày sau tôi sang nhà Thanh chơi. Gia đình
Thanh cũng đông người. Quê gốc ở Hải Phòng, di cư vào Nam năm 1954. Hiện ông bố
đang làm thợ may. Mẹ bán hàng rau quả ở chợ. Thanh có người anh trai cả cũng bằng
tuổi tôi. Là lính của QLVNCH được sang học lái máy bay ở Mỹ. Nhưng khi khóa học
gần kết thúc, tình hình Miền Nam gần đến giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Anh
trai Thanh, đã cùng mấy người bạn cùng khóa đào ngũ. Không trở về Việt Nam, mà
trốn sang định cư sinh sống ở Canada.
Tiếp đến
là 1 anh trai nữa, kém tôi 2 tuổi. Anh là người có tri thức cao, rộng. Đang làm
kế toán của 1 hãng nào đó. Một chị gái, cùng một người em trai út. Người anh thứ
2, thường hay nói chuyện với tôi. Hai anh em rất nhanh hợp gu, khi nói về các
tác phẩm văn học, hay âm nhạc. Về văn học, thì đều nói về các tác phẩm văn học
nước ngoài như: Bá Tước Mongtơgờrixito, Cánh buồm đỏ thắm, 3 người lính Ngự Lâm.
Trà hoa lữ, Hội chợ phù dung. Hoàng hậu Mác gô của văn học Pháp. Hay Người tình
tuyệt vời văn học Mỹ. Điệp viên 007, truyện viễn tưởng thì có tác phẩm 20. 000
dặm dưới đáy biển. Về âm nhạc, thì hay nói đến giai điệu của những bản nhạc
như: Vũ khúc Tây Ban Nha, Panoma, Xifpole, Trở về Xô ri an tô... v. v.
Hai
anh em chúng tôi, cũng hay đàm đạo về một số lĩnh vực cuộc sống khác. Thực ra
những hiểu biết này cũng đơn giản. Là vì tôi từ bé đã sống ở Thị xã, trước khi
đi bộ đội đã làm việc ở xưởng đóng tàu Hải Phòng. Tôi lại cũng ham đọc sách nhất
là văn học nước ngoài. Học chơi đàn Ghita. Nên đó chỉ là những hiểu biết thông
thường, của thanh niên Thành phố, Thị xã lúc đó.
Nhưng
cũng chính qua các cuộc nói chuyện và đàm đạo đấy. Với những hiểu biết đó, mà
anh trai Thanh, ba má Thanh rồi cả nhà Thanh. Cùng các hộ dân cư ở đó, rất quý
tôi. Coi tôi là người có “trình độ” khác với các chú bộ đội khác. Chỉ biết có
súng, có đạn và những bài nói rất giống nhau về Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Cộng
sản hay Tư bản là bóc lột... v. v. Anh em bộ đội mình, thì đa phần là sống ở
nông thôn, rừng núi. Trong điều kiện đất nước có chiến tranh triền miên, nghèo
nàn và lạc hậu. Bà con và thanh niên, sinh viên học sinh Sài Gòn, thì hay hỏi
nhiều thứ linh tinh. Để kiểm tra trình độ của bộ đội. Để so sánh giữa 2 miền Bắc
- Nam.
Cũng rất
buồn cười là, ở miền Bắc hồi đó làm gì đã có tivi, tủ lạnh. Nghe đâu chỉ mỗi Bộ
và trên Trung ương, mới có 1 cái ti vi gọi là: “vô tuyến truyền hình”. Cho nên
khi bà con hỏi bộ đội ngoài Bắc có tivi không? Một số anh em không biết tivi là
gì, mà lại cứ nghĩ là miền Bắc cái gì cũng có. Bao giờ cũng phải nhiều và hơn hẳn
miền Nam. Vì thế một số anh em đã trả lời đại đi là: “Có chứ, tivi nhiều lắm, chạy
đầy đường”. Đây cũng là một câu chuyện khôi hài, mà có thật, trong những ngày đầu
giải phóng. Nó tựa tựa như mấy câu thơ, của nhà thơ Trần Việt Phương như: “Ngày
xưa tôi cứ tưởng, đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ/ mường tượng rằng, trăng
Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ... “.
Tôi
nhanh chóng được lòng mọi người, và như vậy Thanh cũng có những biểu cảm quý mến
tôi. Những buổi chiều đi công tác về, hoặc sau buổi ăn cơm chiều, tôi sang bên
đó chơi. Tôi và Thanh thường hay đứng trước ban công. Nhìn qua các nóc nhà thấp,
những hàng cây. Ngắm đường phố chuẩn bị lên đèn, nhộn nhịp, tấp nấp người qua lại.
Thanh nói là vẫn đi tập vũ Bale “múa”, ở trung tâm văn hóa. Rồi làm cho tôi xem
những động tác cuộn tròn các ngón tay, rất điêu luyện. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ
đôi bàn tay thon dài, trắng ngần đó.
Tôi đứng bần thần dưới gốc cây Dầu to rất cao
bên đường Lý Thường Kiệt. Miên man nghĩ ngợi, dưới gốc cây này năm 76, tôi đã đứng
đợi Thanh, trong một buổi tối đẹp trời, gió lộng. Với những hồi hộp đợi chờ của
người trai trẻ, trong lần hò hẹn đầu đời. Lo sợ Thanh có đến như đã hẹn không?
Năn nỉ mãi, khó khăn lắm mới được Thanh đồng ý, nhận lời hẹn hò. Nhưng với điều
kiện (nói qua chị Danh), là tôi phải mặc bộ đồ dân sự, như thanh niên Sài Gòn. Để
hòa nhập bình thường như thanh niên thành phố. Chứ mặc đồ xanh của lính mọi người
hay để ý rất ngại.
Tôi
cũng không nhớ là đã may, hay mượn được ai bộ đồ dân sự đó nữa. Cái quần vải
pho đen hơi loe ống, cái áo sơ mi màu xanh lơ có chít eo nữa. Cùng cái xe đạp
mi ni nhìn bề ngoài chắc tôi cũng như bao thanh niên thành phố thời ấy. Cái
dáng người cao, gầy của tôi mặc đồ trông cũng rất hợp. Chắc không ai có thể
nghĩ tôi là lính áo xanh. Nhưng với tôi thì thật lạ lẫm trong bộ đồ này, cứ ngường
ngượng làm sao.
Tôi bồn
chồn, tay cứ bấu vào, bóc vỏ thân cây dầu. Đường phố lúc hơn 7h hình như đông
người qua lại hơn. Các loại đèn báo, biển hiệu, của hàng quán, xanh, đỏ, vàng, tím,
nhấp nháy đẹp mắt và sôi động. Chỗ tôi chọn điểm hẹn, gần lui về đường Nguyễn
Chí Thanh tương đối vắng hàng quán. Nên không sáng lắm.
Chờ đợi
hẹn hò thật căng thẳng, mắt không thôi nhìn về hướng chung cư, mãi mà sao chẳng
thấy... Thế rồi Thanh cũng đến, nhưng không phải một mình, mà đang khoác tay một
cô bạn gái, chầm chậm đến chỗ tôi. Tôi hơi thất vọng vì khó xử và vội nghĩ: “Có
lẽ Thanh từ chối buổi hẹn đi chơi này”. Thanh và bạn đều cùng khẽ chào tôi. Tôi
cười, gật đầu. Thanh giới thiệu, đây là bạn thân, cùng đi ra đây với Thanh cho
đỡ ngại. Sau đó Thanh mới kể với tôi là: “Khi nhận lời đi chơi cùng anh, sợ ba
mẹ không đồng ý. Nên Thanh phải nhờ bạn đến xin phép và nói dối Ba, Mẹ là đi
chơi với bạn ấy. Với lại... thật sự Thanh cảm thấy lo lắng và hồi hộp lắm, vì
đây là lần đầu tiên đi chơi với bạn khác phái... “.
Tôi thở
phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, khi bạn của Thanh xin phép về và chúc
hai người đi chơi vui vẻ.
Đợi cô bạn Thanh đi khuất, tôi dắt xe xuống đường.
Thanh ngồi sau xe, tôi chậm chậm đạp xuôi theo đường Lý Thường Kiệt, rồi quẹo
trái theo đường Trần Hoàng Quân (nay là đường Nguyễn Chí Thanh). Hòa theo dòng
người về hướng Sài Gòn. Trong lòng tôi trào lên bao cảm giác lâng lâng khó tả.
Nhận xét
Đăng nhận xét