387 - MŨI CHÍNH DIỆN GIẢI PHÓNG PHNÔM PÊNH

 

Sáng hôm sau tàu lại chuyển bánh, đi đêm không an toàn nên dừng lại qua đêm cũng là quy định bắt buộc của ngành đường sắt K thời đó, từ đây những cánh rừng phủ kín 2 bên đường sắt luôn là những bất ngờ cùng bất lợi cho đoàn tàu hỏa nhưng kinh nghiệm cho thấy lính Pốt không tập kích vào đoàn tàu từ Phnom Penh đi Bat Dambang mà thường nổ súng vào đoàn tàu đi từ hướng ngược lại xuôi về Phnom Penh, vài thằng lính C2 biết được chuyện này từ những người đi buôn, đúng thế chúng chặn đánh như vậy may ra kiếm được chút hàng hóa từ Thái lan về chứ từ Phnom Penh đi thì có mà chết đói, làm gì có gì cho chúng cướp phá ngoài những toa đen không chạy tàn tàn trên đường sắt.

Sang buổi sáng ngày hôm sau chúng tôi dậy sớm sau một đêm nằm vạ vật khắp đoàn tàu, anh nuôi dậy sớm đốt đống lửa to bên sân ga nấu cơm cho lính chúng tôi ăn, nước đã được anh nuôi gánh theo nên công tác nấu cơm buổi sáng chẳng khó khăn gì.

Cả một đêm nằm trên sân ga lặng ngắt như tờ với đoàn tàu chỏng trơ, người dân K đi buôn theo đoàn tàu cũng khá trật tự hình như họ rất hiểu quy luật của chiến tranh nên đã tự giác nhắc nhở nhau trong sinh hoạt gần lính QTN VN, trong đêm tối họ không đi lại lung tung và chỉ tụt xuống khỏi toa xe trên đường sắt khi mặt trời đã rõ mặt người, họ đánh tiếng hay hỏi han lính QTN VN như muốn nói: Tôi cần đi về hướng kia hay góc này tránh tình trạng lính chúng tôi mắt nhắm mắt mở nhìn gà hóa cuốc bắn nhầm phải họ.

Cái hồ nước nhỏ với những cây hoa sen gầy guộc lá tươi ít hơn lá khô ủ rũ dưới mặt hồ nước với ven bờ cây cối rậm rịt cành lan xuống cả lòng hồ, nguồn sống cần thiết nhất khi mùa khô đang dần đến, chúng tôi vẫn thường nói đùa với nhau: Lính ở chiến trường K mà chưa từng nếm nước tiểu của đồng đội thì không phải thằng lính chiến, ít nhất ai cũng một lần thấy được nỗi cùng cực của cơn khát cháy cổ họng, khát đến mức thấy nước bọt trong miệng mình nó đặc quánh lại miệng đắng ngắt, mắt đỏ ngầu vì khát giữa mùa khô và mặt trời như đổ lửa trên đỉnh đầu, ai từng đi qua thời khắc đó sẽ thấy hết được giá trị từng giọt nước ngọt mùa khô trên chiến trường K nó quý hiếm đến thế nào.

Cái hồ nước nhỏ nằm gần sân ga cách đoàn tàu khoảng 100m và chúng tôi cũng tranh thủ vệ sinh cá nhân buổi sáng, lấy nước dự trữ cho cuộc hành trình trong ngày hôm nay, nhóm anh nuôi thì luôn có những chiếc bi đông nhựa to 5 lít để lấy nước mang theo dự trữ, lính anh nuôi đơn vị tôi là những người rất chăm chỉ cần mẫn với công việc, họ chăm lo cho anh em như những người thân yêu của mình, họ vui khi thấy chúng tôi khỏe mạnh ăn uống ngon miệng để có sức khỏe công tác, họ buồn khi anh em ốm đau bỏ cơm, họ đã cố gắng hết mình trong điều kiện có thể để lo cho anh em khác, bù lại khi chúng tôi chiến đấu họ ở lại tuyến sau hồi hộp chờ kết quả trận đánh.

 Nhiều người bỏ nồi niêu xuống là lao vào cứu thương băng bó cho thương binh hay tẩm niệm tử sỹ, thay cho họ bộ quần áo mới sạch sẽ nhất trước khi chuyển lên tuyến trên, tuy không trực tiếp chiến đấu nhưng họ là những chiến sỹ mà chiến công nào cũng có công sức của họ đóng góp. Hôm nay với hoàn cảnh mới, nhiệm vụ tác chiến mới nhóm anh nuôi cũng vẫn ở bên chúng tôi và họ làm tròn cái bổn phận của người lính đối với đồng đội, một nồi nước to đun sôi để nguội cho anh em tự mang bi đông riêng của mình đến mà rót nước mang theo cho khỏi phải uống nước lã, bữa cơm sáng đạm bạc vẫn món ăn truyền kiếp cá khô kho mấy khúc trong cái đĩa chia 4 ngăn quân dụng bằng nhôm.

B1 chúng tôi bê nguyên cái chậu cơm lên nóc toa tầu ngồi ăn với nhau, mỗi người xúc bát cơm sáng với mẩu cá khô kho rồi dạt ra một chỗ ngồi ăn, lính chúng tôi mang tiếng là vậy nhưng ăn uống cảnh vẻ lắm, không mấy người ăn khỏe ăn nhiều, cơm sáng mỗi người mỗi bát ai ăn khỏe cũng chỉ sang bát thứ hai là cùng, cả C2 có thằng Do bên đại liên là ăn khỏe nhất, nó từng quất hết 13 xuất cơm sáng của anh em nên cứ B nào thừa cơm thì mang xuống anh nuôi để đấy cho thằng Do nó ăn.

 Thằng này dễ tính, không tự ái bao giờ, ai cho cái gì ăn được là nó ăn ngay không chê và cũng chẳng cần giữ ý, nó tình nguyện vác nặng miễn là được ăn no bụng và nó từng sở hữu cái tầm khẩu đại liên ở đơn vị tôi cho đến hết đời lính, bao nhiêu km đường đất dưới chân chúng tôi thì bấy nhiêu km cái tầm súng đại liên ngự trị trên vai nó, hình ảnh về nó nằm mãi trong tôi nhiều năm tháng sau này, với bộ quân phục màu cỏ úa bạc phếch, quần ống thấp ống cao chân đi đôi dép cao su của lính Pốt to và nặng như cối đá mà nó từng lột ở xác chết thằng lính Pốt nào đó, mũ sắt trên đầu cài quai cẩn thận với cái ba lô gạo và tư trang sau lưng dừng bước xốc lại cái tầm khẩu đại liên gần 20kg trên vai, ngước mắt nhìn lên lưng chừng núi như tự lượng sức mình trên đường vượt dãy Uran cuối mùa khô 1979, với góc nhìn của tôi thì nó là hiện thân của anh nông dân cầm súng.

Tôi ngồi đó nhởn nha nhai cơm sáng mắt lơ đãng nhìn ngắm cái nhà ga này, mái ngói sẫm màu thời gian rêu phong cũ nát, tường vôi trắng cũng đã trở về màu luôm nhuôm của những vệt nước mưa chảy theo thời gian, một nửa cái mái biến mất đi đâu trơ lại tường bức còn bức đổ, cây mọc gần cửa ra vào nơi có cái cửa vòm cong cong cùng hàng đống đổ nát nằm đó từ bao giở bao giờ chẳng ai rõ, những vết đạn còn nham nhở trên tường nhà ga phảng phất đâu đây từng diễn ra những trận giao tranh ác liệt, ngoài xa kia cái tháp nước bằng xi măng với 4 cái chân bê tông lênh khênh lạc lõng giữa rừng cây và mấy ai hiểu rằng rừng cây đang xâm lấn cái nhà ga bỏ hoang này, cái ga xép với 3 đường ray xe lửa cũ kỹ và đoạn toa xe vết cháy nham nhở cùng đồ sắt thép rỉ toe rỉ toét, có lẽ những toa xe trở hàng này từng nằm ở đây cả trăm năm mất. Lúc đó tuy còn rất ít tuổi nhưng cũng đủ cho tôi hiểu rằng đất nước này nhiều đau thương quá.

Tiếp theo...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

1- Hồi ức của 1 quân nhân VNCH trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây nam

1 - NGÃ 3 CHÓP - BIÊN GIỚI TÂY NAM HƯỚNG SƯ ĐOÀN 7 BỘ BINH

1. Sư đoàn 341- đoàn Bộ Binh SÔNG LAM - Biên giới Tây Nam