83. Phần 2: Preah Vihear – Những năm tháng huyền thoại

 

KỶ NIỆM CONGPONG THOM

Mùa mưa năm 1981…không thể nhớ là tháng mấy vì mưa đã bắt đầu, hai bên đường từ F bộ F307 qua Phnom Tabeng…qua đường 12…hai bên đường cỏ đã xanh rì…không còn cảnh hoang tàn chết cháy của mùa khô rừng khộp…

Qua ranh giới giữa tỉnh Preah Vihear và tỉnh Congpong Thom vài giờ xe chạy…đã nhìn thấy những cánh đồng xanh với những cánh cò bay lả bay la…không khí yên bình lần đầu tiên được chứng kiến, sau hơn 2 năm lặn lội dọc theo dãy Dangrek. Ngỡ ngàng như trong mơ…và cảnh mơ nhưng thật

Khoảng 5 giờ chiều, chiếc xe chở phái đoàn của F307 về Congpong Thom dự cuộc họp của MT719 bắt đầu vào thị xã. Chưa vượt qua chiếc cầu bắc qua sông Xen về phía bên phải …là giờ tan trường của một trường cấp 3. Màu trắng và xanh ngợp cả một góc trời. Nữ sinh mặc áo sơ mi trắng, thật trắng và xà rông xanh da trời, nam sinh cũng áo trắng và quần xanh… Có lẽ do hoàn cảnh chiến tranh, hầu hết học sinh trường này đã quá tuổi qui định. Xe chạy chầm chậm… lướt qua những nhóm học sinh. Những nữ sinh đã đến tuổi trưởng thành, trên thân thể lộ rõ nét xuân và tràn trề nhựa sống. Con gái K vùng này khác xa trên Preah vihear…da trắng trẻo hơn, gương mặt khả ái, và ngay cả dáng đi cũng dễ làm xiêu lòng người. Những người lính f307 cũng đắm đuối nhìn những nữ sinh mang dáng thiếu nữ đang tung tăng cười nói dọc hai bên đường.

Có vài nhóm học sinh cũng vẫy tay chào những người lính tình nguyện Việt Nam …với những bàn tay trắng nõn nà và những nụ cười quyến rũ trên đôi môi hồng. Xe vượt qua chiếc cầu và rẽ phải theo dọc bờ sông…hai bên bờ những hàng dừa trĩu quả, và phía bên kia là chợ đã thưa thớt bóng người.

Qua một ngã tư có hình đầu Thần quay bốn hướng, chiếc xe đỗ lại một khu nhà sang trọng, với mái ngói đỏ và vườn cây xanh bao bọc. Tư lệnh và bộ phận TM của F xuống xe, bước đến vọng gác nói phiên hiệu của đơn vị với anh vệ binh, và có một vị Trung tá ra đón. Tôi giao ba lô đựng bản đồ tác chiến của toàn sư đoàn cho Trưởng ban trinh sát F, và theo mấy anh vệ binh về vị trí qui định của MT719.

Đêm đó dù có mấy anh Vệ binh rủ đi chơi, nhưng vì chưa có lệnh của Thủ trưởng nên chúng tôi ở lại khu vực qui định. Sau giờ cơm sáng, đích thân Tư lệnh đến giao nhiệm vụ, nói rõ những qui định và quán triệt một số vấn đề. Chúng tôi được phép đi chơi, không mang súng theo và có một nửa lực lượng ở nhà chờ công tác (thực ra thì chả có công tác gì cả, ở lại giữ đồ đạc và vũ khí cho anh em).

Theo yêu cầu của MT719 thì tất cả phải đeo quân hàm khi ở trong khu vực. Khổ nỗi trên ve áo chúng tôi chưa có hai cái móc để đeo quân hàm, lại đi mượn kim chỉ của vệ binh…Việc đầu tiên là tôi đi tìm tiệm thuốc tây để mua một ít thuốc chữa chứng đau thần kinh tọa, vì đi một ngày đường ê ẩm cả lưng. Hỏi thăm mãi mới có một tiệm thuốc tây, ngay bên cạnh rạp chiếu bóng…Vòng qua vòng lại thấy có một quán cà phê viết bằng tiếng Việt hẳn hoi: “Hoa Anh Đào”

Mấy anh em bước vào quán.

Chủ quán là một phụ nữ Việt chừng hơn 30 tuổi, nhan sắc cũng còn mặn mà, có 4 em người Campuchia giúp việc. Trong quán mở toàn nhạc Chế Linh – Thanh Tuyền trước năm 1975. Hầu hết khách trong quán là bộ đội mình, và bộ đội của Bác Hun.

Người mang cà phê ra là một thiếu nữ Campuchia trạc tuổi chúng tôi. Không đẹp nhưng rất có duyên với cặp mắt đẹp quyến rũ. Ngôn ngữ bất đồng …chỉ nhìn nhau cười.

Tôi đảo mắt nhìn xung quanh quán, dè chừng đường rút khi có tình huống xấu. Mấy anh em ngồi uống cà phê và nghe nhạc…thả hồn trong tiếng nhạc du dương của những bài nhạc vàng…Bất chợt quay vào trong…thấy đôi mắt em đang nhìn chúng tôi. Có gì đâu mà nhìn hởi cô thiếu nữ Campuchia duyên dáng kia ơi?

Thì ra trang phục của chúng tôi khác xa với anh em QK7 và QĐ4 có mặt ở đây. Đa số là anh em bên ngành hậu cần và kỹ thuật, quần áo tươm tất và tiền rủng rỉnh trong túi.

Phía trong quán các cô đang nói và cười điều gì đấy, nhưng những cặp mắt có ánh lửa kia vẫn không rời những gương mặt của anh em chúng tôi. Tôi cũng nhìn lại đáp lễ và nhoẻn miệng cười.

Hết hai mặt của cuộn băng cassette C90 chúng tôi kêu chủ quán tính tiền. Cô chủ quán đến chào hỏi rất lịch sự xưng các anh ngọt như mía lùi. Thời đó chúng tôi không có tiền Riels và phải dùng tiền Việt với tỉ lệ đổi là 1R / 2. 5 VNĐ. Khi chúng tôi bước ra khỏi quán, các cô cũng nhìn theo và vẫy tay chào chúng tôi.

Chiều tối hôm đó, chúng tôi theo mấy anh vệ binh của MT719 đi vòng quanh thị xã. Khi ngang qua rạp chiếu bóng tôi nghe bài hát “Diễm xưa “của Trịnh Công Sơn (nhạc phim Việt Nam).

Do không thể vào rạp xem phim, tôi cùng hai anh vệ binh người Tp Hồ chí Minh ghé vào quán. Vì quán nhỏ, không có điện nên ban đêm họ không bán. Chúng tôi vào ngồi chung với cô chủ quán và những cô bán phụ ngay trước quán.

Do không biết tiếng K, nên tôi chỉ ngồi nghe họ nói chuyện. Có lẽ họ đang bàn tán về tôi vì là người lạ, thỉnh thoảng các cô lại cười. Sau đó cả nhóm kéo ra ngay tượng con voi ngồi nói chuyện phiếm. Tôi như người từ một thế giới khác…chỉ nghe …nhìn các cô …và cười.

Do chân đế của bức tượng nhỏ nên cả 7 người phải chen nhau ngồi. Tôi ngồi cạnh em, một thiếu nữ Campuchia…tiết trời mùa mưa hơi se lạnh…nhưng tôi cảm thấy hơi ấm tỏa ra từ em…vì đã lâu rồi tôi không còn cảm nhận hơi ấm ấy nữa.

Nhìn nhau cừời chừng một giờ thì phía thị xã phim chiếu đã hết. Dân chúng ùa ra khá đông. Chúng tôi phải về theo quy định. Tôi chống tay đứng dậy (do đau TK tọa) vô tình tay đè lên đùi của em …một cảm giác mát rượi ở tay. Tôi nghe mấy anh vệ binh nói “Sơ bai “tôi cũng nói theo chứ chả hiểu gì. Em cũng nói gì đó một tràng tiếng K dài ngoằn ngoèo…tôi chỉ gật đầu cười (lỡ có chửi bố mình thì cũng cười luôn).

Về đến khu vực nghỉ…tôi cũng nghĩ miên man vì lòng đang trống vắng. Những lá thư từ quê nhà vơi dần theo năm tháng…Hoa nở có giờ, tuổi xuân có thưở mà. Có cuộc gì tan vỡ mà lòng không nghẹn ngào, nuối tiếc, xót thương…

Đang miên man nghĩ trời nghĩ đất…không ngủ được …thì có tiếng anh vệ binh gọi, cả mấy anh em đang ngủ cũng bừng ngồi dậy. Anh vệ binh chỉ nói “Ai là Hà ra có người gặp “. Tôi chòang vội cái áo và theo anh vệ binh về khu nghỉ chân của các bộ phận trợ lý cách đó chừng 50m. Đại úy Khoa đang ngồi chờ tôi ở một cái phòng rộng (có lẽ là phòng khách). Nhiệm vụ được giao: vẽ lại đội hình bố trí của tòan Sư đòan từ cấp D trở lên để ngày mai Tư lệnh báo cáo. Anh Khoa phải chuẩn bị bài thuyết trình, đánh giá tình hình cho Tư lệnh. Trải tấm bản đồ rộng trên bàn…tôi vẫn cón vấn vương hơi ấm và làn da mát của em khi tối.

        Anh Khoa có vẻ nhận biết cái gì đó không ổn trong tôi nên bảo “Làm việc tập trung, tránh sai sót nhé. Lỡ có chuyện gì, cái đầu tôi và cậu không còn nằm trên cổ đâu đấy “. Gần sáng công việc hai anh em mới xong. Anh Khoa xem lại bản đồ, hỏi chi tiết về bố trí quân của E29 (điểm nóng của F lúc đó) và rủ tôi ra bờ sông uống cà phê.

Tôi trình bày với anh Khoa bệnh đau trở lại mấy bữa nay, anh cho em ra ngoài lùng mua thuốc cho đỡ đau. Anh đồng ý ngay. Tôi trở về khu nghỉ và mang theo ít tiền dạo quanh bờ sông Xen…Ghé vào một quán ăn. Tôi ăn sáng với tô hủ tíu Nam Vang…và lên đường thẳng hướng tượng Con Voi. Quán buổi sáng vắng khách. Cô chủ quán ra hỏi “Anh uống gì? “tôi trả lời cho qua chuyện, nhưng mắt nhìn vào trong quày nhưng chẳng thấy cô nào.

Bằng một động tác thuần thục …một ly cà phê “vợt “to tổ bố được cô chủ quán đang thời xuân sắc mang ra. Cô chủ quán vào trong mang ra ly cà phê sữa… và ngồi nói chuyện với khách.

Qua tiếp xúc tôi cũng né tránh là tôi từ Preah vihear xuống, mà nói dối là ở Battambang xuống (tôi biết chết liền?). Cô chủ quán khá ma mãnh trường đời và khẳng định luôn “Nhìn anh tôi biết, anh mới đến đây lần đầu… và anh cũng không phải ở Battambang xuống “. Tôi khẳng định lại là ở Battambang nhưng cô vẫn không chịu. “Quần áo anh mặc không giống bất cứ anh em nào mà tôi từng gặp ở đây? Nhìn anh tôi cũng biết là anh khác người lắm “. (Tôi nghĩ bị lộ rồi vì lính QK5 trang phục khác).

Hai bóng hồng K xuất hiện phía sau quày. Cô xổ một tràng tiếng K dài như đòan xe lửa với mấy cô phụ quán. Cô xin phép vào trong… và sau đó là cô gái mà tôi gặp hôm qua ra lau các bàn trong quán.

Em nhìn tôi cười và nói câu tiếng K gì đó… tôi cũng chỉ nhìn và cười.

Khi cô chủ quán dắt chiếc xe đạp ra đi chợ, tôi hỏi tên cô phụ quán thì được trả lời là Khêri (chả hiểu nghĩa là gì?). Phía bên kia dãy bàn Khêri nhìn cô chủ quán cười với vẻ e thẹn … Khách bộ đội và thỉnh thoảng có vài thanh niên K cũng vào quán uống nước. Mọi hoạt động của quán vẫn bình thường. Tôi ngồi một mình với cái bình nước, và gói thuốc thơm Samit cho đến trưa. Thỉnh thoảng nhìn em, thấy em cười…qua lại em vẫn hỏi vài câu mà tôi chả hiểu nó nghĩa gì? Chỉ cười và cười. Nụ cười nói lên tất cả. Một chiếc xe tải đỗ xịch trước quán, bụi của nó ùa cả vào quán…

Một số anh em nhảy xuống xe và bước vào quán, hầu hết họ là sĩ quan ngành với đủ loại phù hiệu. Lập tức các em trong quán niềm nở chạy ra nhưng không có Khêri…Họ đã quen nhau như người nhà qua cách tiếp đón.

Họ ngồi bàn ở giữa quán cách tôi hai cái bàn dài. Họ nói oang oang mọi thứ chuyện trên đời cả bằng tiếng Việt và cả tiếng K…và câu chuyện xôm tụ nhất là chuyện buôn lậu mọi thứ hàng hóa từ K về Việt Nam.

Quá ngán ngẩm với những câu chuyện họ kể, thái độ của họ nhìn tôi. Tôi đứng dậy và ra khỏi quán. Lúng túng thế nào mà bỏ quên gói Samit trên bàn…Ra cửa chừng mưoi thước… tôi nghe “Con top Việt Nam “… tôi giật mình ngoảnh lại thì thấy Khêri cầm gói thuốc, chạy đến và đưa cho tôi.

Trong ánh mắt và của Khêri có điều gì đó quá dịu dàng và bối rối.

Tôi đi thẳng về hướng thị xã được một đoạn. Ngoảnh lại xem Khêri đã vào quán chưa…thì em vẫn còn đứng trước cửa quán nhìn theo.

Tiếp theo...

Nhận xét