65. Phần 2: Preah Vihear – Những năm tháng huyền thoại
ĐÔI
DÒNG KỶ NIỆM VỀ THỦ TRƯỞNG NGUYỄN HỮU HÀ.
Tôi thật
sự xúc động khi biết Đại tá Nguyễn Hữu Hà đã qua đời. Câu chuyện tình với nàng
Ma-Ly xảy ra vào năm 1982 thì phải, khi e94 hoạt động ở khu vực Choamkhsan cùng
với đoàn 5504. Khi đó, Tư lệnh f 307 là Lê An, Phó Tư lệnh TMT là Nguyễn Văn Yến
và Thủ trưởng Hà là Phó Tư lệnh về Chính trị (theo chế độ một thủ trưởng)
Tôi nhớ...
Lần đầu
tiên tôi gặp ông vào khoảng mùa khô năm 1980, khi chúng tôi cùng với anh em d1
đang làm phương án xác định các vị trí của địch ở bên kia biên giới. Bộ phận
làm nhiệm vụ đang tạm trú tại chốt tiền tiêu c1 d1, phía đông Chùa Preah Vihear.
Ông đến thăm với tư cách là Tân Chính ủy của Trung đoàn 95 (thay cho Chính ủy Tạ
Như Quỳnh về nước chuyển công tác).
Cái
nhìn đầu tiên đã để lại trong tôi nhiều dấu ấn sâu sắc. Phải công nhận Ông rất
đẹp trai, vóc dáng người to cao, đặc biệt có giọng cười rất giòn và sảng
khoái…thì chuyện khi còn trai trẻ “đào hoa “là lẽ tất nhiên. Mới nhìn và tiếp
xúc với Ông, không ai nghĩ Ông là Chính ủy…ai cũng nghĩ rằng ông là một cán bộ
Quân sự. Nói chuyện phiếm với cánh trinh sát, chúng tôi nhận ra khả năng về
Quân sự khá nổi bật của ông (vì Chính ủy am hiểu khá tường tận về bản đồ như
ông, không phải là nhiều)
Người
Bình Định đi đâu cũng rất dễ nhận nhau ra giọng nói đặc sệt chất “nẩu “của mình
(nẩu: đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 số nhiều) Ông quê ở xã Bình Phú, huyện Tây
Sơn Bình Định và tôi là dân Phù Mỹ.
Lần thứ
hai tôi gặp ông là cuối mùa mưa 1980, khi tác chiến cùng d2 ở 428. Chiến trường
đang trong thời điểm căng thẳng…Nghe d trưởng d2 báo cáo về tình hình, ông biết
rằng bộ phận trinh sát đi phối thuộc cùng e95 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tạo
nhiều thuận lợi cho d2 đánh tan chiến tranh quấy rối, có tính cách du kích của
địch. Thủ trưởng Thăng CTV d2 gọi tôi lên gặp ông.
Tôi nhớ
là ông kêu lên “A! Dân Phù Mỹ “và chìa tay ra bắt.
Lính
95 thời đó đa số là Bình Định và Quảng Ngãi, điều làm chúng tôi cảm kích là ông
khơi được tố chất của người Khu 5. Trong giọng nói của ông, chúng tôi cũng hiểu
niềm tự hào đang dâng trào trong ông. Những đứa con của dân Khu 5 vẫn đứng vững
trong thử thách.
Ông đi thăm vòng quanh đơn vị, khi đến vị trí hầm của trinh sát đi phối thuộc, thấy tôi ông chỉ cười và hỏi đúng chất chính trị:
Các em
ở đây có gì khó khăn …và điều cần đề nghị bây giờ là gì?
Thấy d
trưởng và CTV d2 cười cười, tôi cũng nói vui (ông có tính hài hước):
- Thưa
Thủ trưởng, em thấy cái đường biên giới nó chỉ là cái vạch đen trên bản đồ, sao
mình lại sợ không dám vượt qua?
- Có mấy
cái trại lính Pốt bên đó, sao mình không nhổ đi cho rồi, để nó quậy quá Thủ trưởng
ơi?
Tôi thấy
mặt ông đanh lại …và cuối cùng ông cũng chỉ nói là nên kiềm chế chờ lệnh của
trên. Các đồng chí không được làm ẩu. Thái Lan đang tố cáo trước diễn đàn LHQ
là Việt Nam tấn công và pháo kích vào lãnh thổ Thái Lan. Để giảm bớt căng thẳng
ông cho anh em trinh sát 2 bao thuốc và cười hì hì…
Có một
lần khi ở Chùa … Ông đi cùng Thiếu tướng Nguyễn Huy Chương, Phó Chính ủy QK5
lên thăm anh em d1, và bộ phận phối thuộc của f. (Pháo 85 và TS). Ông đến thăm
anh em trinh sát và mang theo ít quà của Tư lệnh QK biếu cho anh em tu ở Chùa.
Tôi
đang ngồi đọc một cuốn tiểu thuyết mà anh em tân binh mới mang sang, đó là cuốn
“Mắt tím “của nhà văn Lệ Hằng (nhà văn trước năm 1975). Ông chỉ lật mấy trang đọc
lướt và đưa lại cho tôi.
Ngồi dưới phiến đá …tôi và ông bắt đầu nói chuyện văn chương. Mọt sách gặp mọt sách nên câu chuyện cũng khá thú vị. Khi chia tay, ông tặng tôi cuốn sách văn học nước ngoài mới xuất bản “Người đàn bà cuối cùng và cuộc chiến đấu sắp tới “của nhà văn Cuba M. C. Lopez…
Cuối
năm 1980, e95 có mở một lớp tập huấn cán bộ cấp a, b của trung đoàn. Từ khu chiến
d2, tôi được BTM e95 rút về, để truyền đạt một số kỹ năng sử dụng bản đồ cùng với
anh Lập c trưởng trinh sát e95 cho lớp tập huấn này. (Lớp trưởng là anh Lê Duy
Hoa, một trong những anh em còn lại của c2 d1 sau trận ngày 8/1 ở bờ tây sông
Mêkong). Tôi được phân công ở cùng phòng với anh Đỉnh (trợ lý ban tác huấn) khi
đó là phụ trách lớp (trung úy Đỉnh là sỹ quan duy nhất của e95 xuất thân từ trường
SQLQ 1 Sơn Tây).
Một buổi
chiều sau giờ cơm…tôi ngồi trước dãy nhà ban tác huấn đọc lá thư thứ 2 của người
bạn gái cùng lớp, tôi mới nhận hồi chiều … (lần đầu tiên cô nàng đổi đại từ
nhân xưng với tôi.)
“… Chiều
về trên biển Phương Mai - Quy nhơn…Em ngồi một mình lắng nghe tiếng sóng biển, lắng
nghe những kỷ niệm ngày xưa hiện về trong ký ức.
Này
sóng ơi! Sóng đang ca bài ca gì thế…bài ca của sóng khó hiểu quá …sóng vẫn lặng
thầm ca bài ca muôn thưở …
Cũng
chính nơi đây, giữa tiếng sóng của một đêm trăng sáng…tim em rung động lần đầu
tiên, cảm nhận thầm yêu một người … Anh và em cùng ngồi trên tảng đá bên bờ nước,
chúng mình không ai bận tâm đến những con sóng dạt vào người, và bọt nước làm ướt
sũng quần áo…chỉ lắng nghe rất say sưa những tiếng sóng dập dìu vút lên cao, rồi
lại rơi ào xuống… Sóng trườn lên bãi cát trắng tinh, vuốt ve lên đôi chân trần
của em và của anh. Ngày đó, anh chỉ thích nhìn mặt trăng… khi từ từ nhô lên khỏi
mặt nước…còn em, em chỉ thích nghe tiếng sóng biển, nghe tiếng đập thổn thức của
con tim em. Anh vẫn vô tư hay nói đúng hơn là anh vẫn vô tâm…Anh vẫn cứ thích
nhìn, thích nghe tiếng sóng vỗ mạnh vào vách đá đằng xa kia, làm phát ra những
âm thanh rung tai, kéo theo những bọt nước trắng tinh lấp lánh dưới ánh trăng…
khi chúng tung lên…
Anh
đâu biết rằng, chính những âm thanh mạnh mẽ nhất từ con sóng, đã làm đứt gãy và
khoét thủng tim em những vết thương…vì đã làm anh không biết em đang ở bên cạnh…sóng
vẫn vô tình sóng ơi!
Em đã
đến tiệm cho thuê sách ngả tư đường Lê Hồng Phong và Mai Xuân Thưởng, tìm lại
những cuốn sách mà ngày xưa anh đã từng mượn đọc. Vẫn còn đây những dòng thơ
anh chép của tác giả nước ngoài, và những lời dịch:
…And
the sunlight clapps the earth,
And
the moonbeams kiss the sea What is all this sweet work worth If thou kiss not
me?
Anh có nghe nắng đi về lòng đất
Trăng
đêm sâu hôn biển rộng vô cùng
Môi em
đó, anh để buồn se sắt
Trần
gian này còn lại dấu hư không. “
Chính ủy
đến lúc nào tôi không biết…chỉ khi ngẩng lên thì thấy thủ trưởng cười. Tôi đưa
lá thư cho ông đọc. Ông chỉ đọc lướt qua … (lính tráng đọc thư chung là chuyện
bình thường thời ấy. Nhưng là thủ trưởng nên ông cũng lướt qua cho có đọc, có lẽ
ông cũng không muốn đọc hết làm gì)
Ngồi ở
đó tâm sự, tôi mới biết rằng ông cũng là con người rất yêu thơ. Tôi có chép lại
bài thơ “Lá chanh “do ông đọc, nhưng nay thì không còn nữa nên không viết ra
đây được (bài thơ cảm nhận về vẻ đẹp của người con gái khi tắm (hay gội) bằng
nước chanh thì phải…)
Ông đã
kể chuyện về thời trai trẻ của ông trên đường Trường Sơn.
Ngày ấy,
thơ là thiêng liêng, là máu thịt, là nơi duy nhất để tỏ bày, gửi gắm điều chi. Trên
đường Trường Sơn hành tiến về Nam, anh bộ đội hay cô thanh niên xung phong, đều
có cuốn sổ nhỏ chép những bài thơ mà họ yêu thích. Thơ là người bạn gần gũi với
số phận người lính, với cái sống và cái chết của người lính, cả trong nỗi đau
và khát khao cần được chia sẻ. Chính thơ đã đưa những điều cộng cảm đến với con
người. Trong những bài thơ ông đọc, tôi chỉ biết có bài: Màu tím hoa sim của Hữu
Loan.
Chính
ông cũng đưa ra những suy nghĩ về thơ …
Thơ
trong chiến tranh lúc giống như người yêu, lúc giống như người đồng đội, lúc lại
giống đôi mắt buồn thăm thẳm của người Mẹ. Nó bất chợt như bàn tay mẹ xoa trên
lưng con một chiều trước hôm tiễn biệt. Nó như giọt nước mắt người ta yêu, rơi
lặng lẽ lúc đoàn xe chở quân… vang lên tiếng còi trong một buổi sáng mua đông
giáp tết năm nào (Ông thoát ly gia đình vào chiều 28 tết). Dòng thơ mập mờ ẩn
hiện theo nhịp rung đều đều của con tàu chở quân ra mặt trận.
Và nhiều
cảm nhận nữa mà tôi không thể nhớ hết. Thời trai trẻ có ai nghĩ rằng những kỷ
niệm sẽ là phần còn lại duy nhất của đời sống con người. Nhà văn nào đó đã viết
như vậy.
Đang
say sưa nói chuyện về thơ, thì anh công vụ đến mời ông về họp với Phó chính ủy
Vũ Minh Thái (nay là Chủ tịch hội CCB huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi) …
Chia
tay tôi, ông hẹn một ngày nào đó sẽ tiếp tục câu chuyện. Nhưng rồi nhiệm vụ và
môi trường công tác, cả tôi và ông đều bị cuốn sâu vào công việc, nên không có
điều kiện để nói chuyện về thơ văn với nhau nữa.
Và lần
cuối cùng tôi nói chuyện với ông là sau trận đánh 547 (4/1984), trước khi tôi
và 50 anh em khác chuẩn bị ra quân, vì thiếu điều kiện để thực hiện “chế độ một
thủ trưởng “.
Khi đó
ông là Phó Tư lệnh về Chính trị, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 307.
Nhận xét
Đăng nhận xét