70. Phần 2: Preah Vihear – Những năm tháng huyền thoại
MÙA
TRE RA HOA.
Những
ngày cuối năm âm lịch Canh Thân.
Rừng
Campuchia đột ngột tre rừng ra hoa (tre gai) dưới chân các bình độ tre gai chỉ
còn trơ lại thân cây…những cành tre có hoa phất phơ trước gió…
Vẫn là
cao điểm của mùa khô Campuchia…rừng khộp rụng lá …những cánh rừng cháy ngút
ngàn …và những cái nắng thiêu đốt cả đất trời…những dòng suối chỉ còn trơ lại
cát và đá…những chú gà rừng sáng gáy te te …những đám mây lởn vởn dưới chân dãy
Dangrek… mai rừng nở lác đác và các loại phong lan nở rộ trên những thân cây…
Tin
báo cho biết… địch đang hoạt động tại khu vực núi Cụt (cao điểm 677) một cách thường
xuyên. Một đơn vị của đoàn 5504 tại Choamkhsan, đã mấy lần phục kích khu vực
này, nhưng chưa lần nào tiêu diệt được địch… vì khả năng ta bị lộ khi hành quân
ra khỏi địa bàn. Có khi ta đến nơi, địch đã di chuyển khỏi vị trí cách đó chừng
vài giờ…
Ban
Tham mưu Sư đoàn quyết định dùng B3 của trinh sát F, và một lực lượng của d7
e29 tại ngầm Saem, để thực hiện cuộc phục kích này, với lực lượng khoảng 40 người,
trang bị 2 PRC25, dưới sự chỉ huy chung của Thượng sĩ C phó e29 (lính 1977 là
con của quê hương Cách mạng Điện Bàn, Quảng Nam).
Từ F bộ
307 đội hình đi về hướng 428, cắt dọc theo các bình độ biên giới. Tin báo là
chính xác …Tại đây, địch thường xuyên dùng lực lượng nhỏ, vận chuyển vũ khí vào
khu vực các huyện phía Nam của Preah Vihear và Congpong Thom. Đường chúng đi
dày như bàn cờ, và đều xuất phát từ bên kia biên giới.
Sau
khi quan sát địa hình khu vực, hướng di chuyển của chúng, chỉ huy trinh sát và
bộ binh thống nhất là sẽ chặn đánh chúng từ phía sau lưng.
Thời
gian này, chúng ta đã không còn dùng mìn Claymore, nên buộc phải bám sát chúng,
do lực lượng chúng không đông. Lực lượng ta chia thành 4 nhóm, chặn các ngã dọc
biên, mỗi nhóm cách nhau trên dưới một km để dễ dàng chi viện cho nhau.
Khoảng
9 giờ sáng ngày thứ 3, nhóm tiền tiêu của ta báo có địch. Từ các khe núi, ta
quan sát có 11 tên mang đủ vũ khí cõng hàng vượt qua biên giới. Ta không chủ
trương đánh ngay, mà cho bám theo. Khi cách 677 chừng 2 km chúng dùng cuốc đào
hầm dưới suối, và chôn vũ khí rồi quay về. Theo nhận định của ta, ngày hôm sau
sẽ có quân đến nhận, nên ta không tổ chức đánh bọn này, chờ lực lượng đến nhận
sẽ đánh úp luôn. Ta tổ chức bố trí mìn xung quanh, nhưng sau khi hội ý, thì nếu
chúng vướng mìn, sẽ khó cho ta tiêu diệt gọn nên ta bỏ phương án này, mà tổ chức
phục kích từ các hướng với lực lượng chính là anh em trinh sát, còn bộ binh ta
làm nhiệm vụ chốt chặn các ngã đường.
Nhưng
không hiểu sao phải 2 ngày sau mới có lực lượng đến vị trí nhận hàng, khổ sở
cho anh em ta phải vất vả suốt mấy ngày trời, nhưng lực lượng đến nhận ít hơn
chỉ có 8 tên.
Chúng
cũng cho người cảnh giới xung quanh, còn lại chúng chất hàng vào các bao vải to.
Xong
xuôi chúng bắt đầu di chuyển về hướng nam.
Ta đã
tính tới phương án đánh bắt sống, nhưng suy xét thì địa hình quá bất lợi, không
đủ điều kiện áp sát bí mật, nên khó thực hiện. Hơn nữa cấp trên đang nóng ruột
chưa tiêu diệt được địch… nếu không tiêu diệt gọn sẽ bị khiển trách, nên tổ chức
đánh úp luôn.
Di
chuyển bám theo chúng chừng hơn 100m, lợi dụng chúng phải vòng qua những lùm
tre gai, tốc độ đi có chậm và co cụm, nên ta nổ súng. Phát B40 đầu tiên của anh
lính bộ binh, tiêu diệt gọn hai tên đi giữa đội hình, còn lại 6 tên chúng vứt
hàng, bám vào các gốc tre trơ trọi bắn trả về hướng ta. Thấy một Pốt đang lò mò
kiếm chỗ nấp, anh lính e29 bình tĩnh dùng AK bắn điểm xạ 3 loạt, tên địch giật
nẩy người và đổ sụp xuống gốc tre…toàn đội hình ta nổ súng đồng loạt, do bị kẹt
vào các khóm tre, nên chúng không thể cơ động ra khỏi vị trí, cố bám vào các gốc
tre phản công. Có một tên Pốt già khác, chắc là đường cùng, rời khỏi bụi tre định
thoát thân liền bị anh Trình TS, lia cho một loạt AK… nằm vất vưởng trên ụ mối
(Năm 1987 anh Trình là d phó d6 e94 đánh nhóm Hoàng Cơ Minh tại Núi Hồng).
Sau
hơn 15 phút nổ súng, ta tiêu diệt gọn toán địch vận chuyển, thu toàn bộ vũ khí
và hàng chúng mang. Chủ yếu là đạn B40 mới toanh, cùng một số mìn KP2.
Đang thu dọn chiến trường, từ phía biên giới… một bộ phận của anh em e29 cũng nổ súng mỗi lúc một căng…
Tiếng
súng nổ từ xa, là trận đụng độ của anh em e29 với địch, nhóm địch này đang di
chuyển về bên kia biên giới. Chúng có 4 tên, nhưng do địa hình quá hiểm trở, không
đi đúng vào hướng phục của ta, nên anh em e29 chỉ diệt có một tên, nhưng không
thu được súng. Thằng địch chết đã lớn tầm tuổi 40, người to, khỏe. Hắn mặc cái
quần Kaki màu cứt ngựa, và cái áo đen Pốt chính thống, hắn bị nguyên một loạt
AK vào chóp đầu (anh em e29 trên lưng chừng đồi bắn xuống), trong túi bòng còn
sót lại nửa gói thuốc Thái, và hai lon cá hộp cũng của Thái (anh Trinh vứt luôn
chứ không dùng). Toàn đội hình tiếp tục lùng sục kỹ khu vực dọc biên, phát hiện
chúng hoạt động khu này khá mạnh, với những toán vận tải nhỏ. Cách biên giới
không xa, ta còn phát hiện một khu dân cư của chúng, với sinh hoạt bình thường,
không có gì mang dáng dấp của chiến tranh.
Để lại
một nửa đội hình bên này biên giới, khoảng gần 20 anh em tiếp cận khu vực chúng
đang ở. Không thể bám theo đường mòn của chúng, anh em làm một đường vòng hơn 5
km, xuyên qua những cánh rừng già và dọc theo các suối có nước. Vì theo thông lệ,
việc bám theo đường mòn dễ bị chúng phát hiện và bị chặn đánh, mìn thì không sợ
vì bên đất Thái chúng hiếm khi gài mìn.
Khu vực
chúng ở khá rộng, trải dài trên non cây số với những mái nhà tranh còn mới. Chính
giữa có một dãy nhà tole dài chừng hơn chục thước, có vẻ là kho. Tổ bám hướng
anh Trinh phát hiện: buổi chiều có 3 người phụ nữ đi làm nương về mang theo những
quày chuối non… có cả tiếng của con nít khóc la trong khu vực. Chỉ quan sát nắm
tình hình chứ không được lệnh đánh, vẽ lại cách bố trí của chúng cùng tọa độ
khu vực. Chúng tôi khẩn trương rút về bên này biên giới, lúc gần tối, và tổ chức
nghỉ đêm tại một trảng rừng dầu rậm, có dòng nước nhỏ, cách chỗ tên địch chết
hơn cây số.
Qua
liên lạc, BTM sư đoàn ra lệnh cho đội hình quay về D2 để củng cố lực lượng, bổ
sung lương thực và nhận nhiệm vụ mới.
Ở D2
được vài ngày thì đội hình tăng cường ra đến nơi. Đội hình thêm c1 d10 e95 của
anh Quân (sau này anh là thương binh và chuyển ngành về Công ty xây dựng thương
nghiệp Nghĩa Bình) cùng một tổ trinh sát của e95 do Thượng úy Khoa (Khoa râu
quai nón) trợ lý tác chiến của f chỉ huy chung.
Nhiệm
vụ được giao:
+ Toàn
bộ đội hình cũ, có tăng cường thêm anh em d10 tiếp tục bám theo đường vận chuyển của chúng xuôi về hướng nam, giáp
với địa bàn của đoàn 5504 do anh Khoa chỉ huy.
+ Bộ
phận còn lại của D10 và trinh sát e95 do anh Quân chỉ huy, tiếp tục bám địch
khu vực biên giới, chặn đánh các toán vận tải của chúng.
Rời d2
e95 vào buổi sáng sớm se lạnh, tiết trời đã vào xuân…Cảm giác của người lính ra
trận khi Tết gần về không khỏi xốn xang. Trên đường hành quân xuôi về Nam, tranh
thủ lúc nghỉ giải lao, chúng tôi đều nói về ngày Tết ở quê nhà mà chúng tôi có
anh em là năm thứ tư (thế hệ lính 1977), dọc đường những cành phong lan khoe sắc
khắp trời. Anh em trinh sát vốn thích loại phong lan trắng, to bằng cái bát sắt
5 tấn, loại này phải sau cả tháng mới tàn…chúng bám vào các thân cây to rất dễ
lấy. Anh Khoa nhìn hàng quân …trên ba lô, gùi đạn của anh nào cũng có cành lan
trang điểm.
Đêm đến
tại một khu rừng…gió vẫn thổi từ đất Thái về tê tái …bầu trời mùa khô đầy
sao…người lính tòn ten trên võng thả hồn nghĩ về Mùa Xuân…Có khi là một thoáng
bâng khuâng riêng tư những ngày giáp Tết, chinh chiến trên đất nước Chùa
Tháp…Phải có mùa Xuân để cuộc đời này đáng sống …
Người
lính phải chiến đấu …phải biết cách chiến thắng…để chờ mong có những cái Tết
sum họp thiêng liêng và đầm ấm, bên người thân thương trong đêm trừ tịch, thơm
hương trầm và thơm mùi trà cúng Giao thừa, giữa trời khuya se lạnh.
Trong
làn khói bốc lên cao, chao đảo theo chiều gió, trong ánh lửa đun bếp bập bùng, tia
lửa than bắn ra nổ lách tách, từ những nồi nấu bánh chưng cùng Mẹ canh tới
khuya để vớt. Không chỉ riêng có nhớ nhà, hình tượng làn khói còn gợi lên biết
bao nỗi niềm mông lung khác, trong một khoảnh khắc, vẫn chưa kịp gọi tên được
chúng.
Bất chợt
nhớ về bài thơ “Wait for me…So it will be “(Đợi Anh về) của nhà thơ Tố Hữu, dịch
từ bài thơ của một nhà văn Nga nào đó …mà ngày xưa dưới chân mộ Hàn Mặc Tử, đã
có lần được nghe từ một đôi môi hồng, với đôi mắt long lanh của tuổi mười tám. Nghe
bài thơ …mắt nhìn xa xăm về biển bao la…khi ngoảnh lại… đã thấy đôi má em bên cạnh
hồng hồng và đôi môi chờ đợi…
Người lính trên đường hành quân cũng mơ về một cái Tết gần kề, những khúc gỗ Lan treo trước hầm…Xuân đã về …Xuân đã về…Xuân về để cảm thấy nỗi lòng bớt cô đơn.
Nhận xét
Đăng nhận xét