71. Phần 2: Preah Vihear – Những năm tháng huyền thoại
PREAH
VIHEAR - HÀNH TRÌNH CUỐI CÙNG CỦA NĂM CANH THÌN.
Rời
biên giới, chúng tôi đi về hướng nam của tỉnh Preah Vihear. Bám sát các dấu mòn
của chúng đi, để tìm điểm đến của chúng. Suốt 3 ngày hành quân, không gặp lực
lượng nào của chúng. Có lẽ chúng biết đã bị lộ và ngưng các cuộc chuyển hàng. Giới
thiệu sơ qua về địa giới hành chính của tỉnh Preah Vihear:
Preah
Vihear có 7 huyện.
+ Phía
bắc là huyện Choamkhsan giáp với biên giới Thái (huyện này giáp với Tbeng
Meanchey về hướng Nam, Nam – Tây nam giáp với Kulen, Nam – Đông nam giáp với
Chhep).
+ Phía
Tây là huyện Kulen.
+ Phía
Đông là huyện Chhep và Cheysen (giáp với tỉnh Stung – treng).
+ Cực
nam của tỉnh là huyện Sankung Thmey và Rovieng (giáp tỉnh Congpong Thom). Như vậy
nhìn toàn cục thì huyện Tbeng Meanchey là huyện trung tâm, giáp với 6 huyện còn
lại của tỉnh, và là thủ phủ của tỉnh Preah Vihear.
Qua
theo dõi và quan sát, thì hàng hóa chúng đều chuyển về hướng Nam, trọng tâm
theo ranh giới giữa các huyện Tbeng Meanchey – Cheysen và Rovieng…
Địa
hình ở đây khá hiểm trở là nơi giáp ranh nhiệm vụ giữa đoàn 5504 (Bác
Bmtthaoanh) và của f307 nên việc quản lý tình hình có phần lỏng lẻo hơn tuyến dọc
biên giới.
Các
Phum sau đây là nơi tiếp nhận hàng của chúng: Phumi Pouthi, Bahar, Phumi Sre
Prang, Phumi Prame (huyện Tbeng Meanchey), cách các phum này chừng vài cây số dấu
mòn của chúng dày đặc với số lượng người đông.
Kho chứa
của chúng là tại vị trí cách phum Sre Thum (huyện Rovieng) chừng hơn 2km (gần
giao lộ 7 vào huyện Rovieng). Từ đây chúng phân phát về Congpong Thom thuộc mặt
trận 479 (gần vị trí của E Gia Định) …
Vì gần
giáp Tết, BTM sư đoàn lệnh cho đơn vị hành quân, tiếp cận với đường số 7 từ
Congpong Thom lên Preah Vihear, đón đoàn xe chở hàng Tết từ bên nước qua.
Sau
khi BTL sư đoàn liên lạc với các đơn vị thuộc MT479, chúng tôi chốt tại khu rừng
cao su giáp ranh giữa tỉnh Congpong Thom và Preah Vihear.
Trưa
ngày 27 tết, đoàn xe bên nước qua và chúng tôi theo đoàn xe về Cầu cháy.
Dọc
theo đường các đơn vị của 29 và 94 đã chuẩn bị Tết khá kỹ. Lá chuối, lá dong rừng
đang được phơi dọc theo đường. Các đơn vị đều có phong lan treo trước doanh trại.
Lần đầu tiên thấy anh em bảo vệ đường tung thuốc lên xe…
Do
tình hình ta làm chủ chiến trường, sự thông thương giữa các đơn vị thông suốt
nên phải nói là năm 1981 (Tân Dậu) chúng tôi đón Tết quá là sung túc và đầy đủ.
Chiều
28 Tết chúng tôi về đến F bộ tại ngầm Saem. Sau nhiều năm cả đơn vị không tập hợp
đông đủ vào dịp Tết, BTM sư đoàn cho phép rút các đơn vị trinh sát f đi phối
thuộc với các E về doanh trại ăn Tết.
Sắc trời
đang chuyển mình vào Xuân …vẫn là những cái nắng mùa khô. Ban đêm cái lạnh đến
nao lòng… Cái thời điểm kỳ diệu của mùa Xuân khiến tâm hồn người ta bừng lên sự
sống mới. Tô điểm cho cảnh đẹp mùa xuân vùng cực bắc là loài hoa gạo đỏ sặc sỡ.
Mùa Xuân vẩn là mùa đem tới sức sống mới cho vạn vật, trong đó cũng có cả những
người lính như chúng tôi. Hơi ấm của mùa xuân lan tỏa khắp nơi, len qua từng
chiếc lá, cành cây, ngọn cỏ. Hơi xuân lướt nhẹ nhàng qua từng cánh thư…như đã từng
lướt nhẹ lên đôi má ửng hồng…và thăng hoa trong niềm hạnh phúc tràn trề.
Mùa
Xuân …Sức trẻ …Tình yêu. Chào Xuân Tân Dậu 1981.
NGÀY MỒNG
MỘT XUÂN TÂN DẬU 1981.
Tết
năm 1981 Tết của yên bình và dư thừa vật chất.
Lần đầu
tiên từ ngày qua K, toàn sư đoàn có chủ trương giải quyết chính sách phục viên,
phép cho cán bộ từ năm 1977 chưa đi phép.
Ngày
30 Tết, từ F bộ, nhận được cú điện thoại của anh Diệp Ngọc Chinh, nhập ngũ năm
1972, là Y tá của C1D1E95 quê An khánh - Đại từ - Bắc thái thông báo: Sau tết
phục viên. Mời “con rể “mồng Một lên “khướt “(chả hiểu nó nghĩa gì, nhưng đại
khái hiểu là ăn nhậu).
“Tình
nghĩa anh em khi còn ở biên giới, đã nhiều lần vượt tường lửa đánh ra đường
19…Có một đứa con gái sinh năm 1976 kết quả của chuyến phép cùng năm…Chỉ mới 5
tuổi mà cứ tuyên bố gả cho những thằng nào biết điều với Bố. Tính ra ở khu vực
D1 vị Y tá này đã tuyên bố gả con gái cho hơn 100 anh em…Có giá thật. “
Trưa
ngày mồng Một, bám càng xe của Phòng Chính trị sư đoàn lên chúc tết anh em D1, do
Anh Tuyên trợ lý thanh niên của F dẫn đầu. Khi xe cách Chùa chừng vài km, là chốt
của C1, nhảy xuống xe…đã thấy một số anh em đã có chút men, đang đứng dưới những
gốc cây Bằng Lăng đực thẳng tắp xỉa răng nhóp nhép … Chả hiểu có ông nào la lớn
“Ông Hà lên kìa Bố Chinh ơi! “
Một
dáng người xiêu vẹo, bước ra khỏi nhà của Nuôi quân và ngả nghiêng nói “Đ…chị Cậu!
Tớ đ…gả con cho Cậu nữa “…đôi mắt mang hình viên đạn …và ngã ầm trên giường của
anh nuôi quân.
C trưởng
C1 Nguyễn văn Siêu nắm tay, kéo vào nhà BCH C1…nhìn hai hàng ghế tre …đầy đủ
quan văn bá võ của cả D1 và D3. Trên bàn thịt gà…rượu chuối …rượu Bayon…còn đầy
dẫy…
D phó
D3 Thượng úy Thìn dõng dạc tuyên bố “Phải cho C phó trinh sát này chết tại chỗ
hôm nay, không cho thoát “…những tiếng đồng tình phụ họa theo.
Một
bát rượu đầy (loại 4 tấn) do Chính trị viên C1 Thân văn Chấn (Hà Bắc) rót và
mang tới…Cha mẹ ơi! Từ nhỏ đến giờ…
D phó
D1 Thông (Thông liều) đến đứng phía sau kiểm tra độ cạn của chén rượu. Buộc phải
một hơi…nước chạy đến đâu…hơi nóng lan tỏa đến đó.
Tranh
thủ húp vội chén cháo gà chống vả, nhưng cũng không kịp đến bát thứ hai…Đất trời
nghiêng ngã…tất cả là màu vàng …cây lá …bầu trời …anh em bên cạnh …màu vàng tất
tật…Vào cõi thiền…
Tỉnh dậy…nằm
trên võng dưới rừng cây Bằng Lăng. Trong nhà BCH vẫn còn rôm rả…Xuống bếp kiếm
nước uống cho đỡ khát, tìm cách ra khỏi trận địa bằng cách vòng quanh qua các
B…
Tất cả
anh em các B đang tranh thủ viết thư về nhà. Đợt này C1 có 3 người rời khỏi đơn
vị. Anh Chinh (Y tá) Anh Hòe (Quản lý) ra quân. Anh Siêu (C trưởng) về nước đi
học,
Dù
không nói ra nhưng tất cả anh em đều mang một tâm trạng…Buồn.
Chiến
tranh sẽ không biết về đâu. Năm dài tháng rộng nơi chiến trường…Nghĩa vụ 3 năm
rồi về, nay có người đã đủ niên hạn (anh em 1977) …hoàn cảnh của từng con người
đều có chung những khó khăn, vài người vừa viết thư nước mắt vừa chảy rơi trên
trang giấy, những đôi mắt ngấn lệ.
Nghĩ lại
chính mình…
Gia
đình đã vào Nam, không được nhập hộ khẩu, không có địa chỉ để viết thư trực tiếp,
nơi xứ lạ lấy địa chỉ một người khác để viết thư là chuyện khó thực hiện.
Thời
gian dài quá rồi…xuân sắc của người con gái được ví như mọi loài hoa…nở - tàn, tin
dữ từ chiến trường truyền về quê qua những cánh thư…Đợi (95) hy sinh ở 428, Thu
(29) hy sinh ở Kulen, Nhị (c14 -95) hy sinh ở Kamtuot và nhiều anh em là thương
binh, đã về đến nhà an dưỡng. Sự chờ đợi nhau là ảo tưởng, sức ép của gia đình,
bạn bè …và cơ bản hơn là có còn để về không? Ngày trở về có còn nguyên vẹn hay
không? Câu hỏi vẫn chưa có lời đáp một cách chính xác.
Những
cánh thư ít dần, ít dần theo năm tháng…Đến một ngày, nhận được tin không vui “khôn
ba năm, dại một giờ “. Lời thề non hẹn biển của ngày xưa, đâu là gì so với nghịch
cảnh của chiến tranh. Giao ước thì thầm trong bóng đêm ngày xưa ta trao cho
nhau, đã không thể biến thành giao ước giữa cuộc đời, nơi thanh thiên bạch nhật.
Thôi cố
quên và nuốt nó vào lòng. Hãy tha thứ cho nhau vì những điều không ai muốn.
Vị tha cho nhau …để ngày mai viên đạn anh bắn đi… sẽ vì hạnh phúc của mọi người…trong đó có cả hạnh phúc mà mình vừa vuột khỏi tầm tay.
Nhận xét
Đăng nhận xét