43- Hồi ức của 1 quân nhân VNCH trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây nam
Những điều ba tôi mượn ý thơ của Nguyễn
Công Trứ để nói với tôi, tôi hiểu rằng ông không bảo tôi ở nhà làm con mọt sách
để tìm công danh mà là con đường binh nghiệp tôi đang đi là hợp với đạo lý mà bất
kỳ người đàn ông nào khi đất nước trong thời binh loạn cũng phải có trách nhiệm
ghé vai, đi và về trong vinh quan chứ không thể trốn chui trốn nhủi. Chính vì vậy ba tôi đã trở về Saigon và đưa
tôi ra tận bến xe, còn tôi thì trốn má tôi để không thấy nước mắt của bà khi
tôi trở lại chiến trường này.
Uống cạn ly rượu nữa thiếu úy Cải gật
gù khề khà nói:
- Khá. khá lắm. Ông già mầy khá lắm, tao chịu ông già mày hà
hà.
Đột nhiên thiếu úy Cải hạ giọng và
nói nhỏ với tôi.
- Tỵ này mày biết gì không? Sau khóa
đào tạo hạ sĩ quan này trung đoàn của mình sẽ được rút về nước đóng quân tại
Tân Biên-Tây Ninh. Anh em mình kịp ăn tết
ở Việt Nam năm nay rồi hà hà.
Sau khi xua quân xâm lược, trước sự
phản ứng quyết liệt của quân và dân binh Việt Nam với những cuộc đụng độ quân sự
nảy lửa vào tháng 3/1979 quân Trung Quốc đã phải rút khỏi các tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam. Sang đến năm 1980 nhà
cầm quyền Trung Quốc đã gia tăng áp lực bằng cách triển khai nhiều sư đoàn trên
tuyến biên giới các tỉnh phía Bắc biên giới Việt Nam như là một hành động ứng cứu
cho đồng bọn tàn quân Khmer đỏ đang bị quân tình nguyện Việt Nam truy quét quyết
liệt trên địa bàn các tỉnh dọc biên giới Cambodia-Thailand, mặt khác là nhằm
làm yên lòng nhà cầm quyền của Vương quốc Thailand bởi đã nghe lời Trung Quốc
có hành vi chứa chấp bọn tàn quân diệt chủng Ponpot trên lãnh thổ Thailand.
Cục diện chiến trường 2 mặt trận phía
Bắc và Tây Nam Việt Nam có thể được nhận định:
Về biên giới phía Bắc tuy Trung Quốc
tăng cường binh lực để áp sát dọc tuyến biên giới nhưng diễn biến hành động
quân sự chỉ là những cuộc bắn pháo sang biên giới Việt Nam nhưng không nhằm vào
bất kỳ mục tiêu chiến lược nào, giao tranh bộ binh của hai bên chỉ là những trận
đụng độ nhỏ lẻ. Về phía Việt Nam đã tăng
cường nhiều sư đoàn thiện chiến đồn trú ở các trọng điểm dọc tuyến biên giới sẳn
sàng chờ đón quân Trung Quốc, thậm chí đã có những cuộc hành quân nhỏ thọc sâu
vào Vân Nam tập kích gây thiệt hại và bất ngờ cho quân giải phóng Trung Quốc.
Từ những yếu tố hiện hữu chiến trường
trong năm 1980 cho thấy, việc bắn pháo sang biên giới Việt Nam chỉ mang tính
chính trị, thực sự không có hoạt động quân sự quy mô nào được tiến hành. Chúng ta có thể nhận thức rằng ưu thế áp đảo về
người của Trung Quốc là không còn như tháng 2/1979 bởi trên thực tế của cuộc
chiến nhà cầm quyền Bắc Kinh hiểu rằng Việt Nam đã chấp nhận cái thế “Lưỡng bại
câu thương “làm Trung Quốc phải trả giá đắt về nhân mạng nhưng cũng không thể
khuất phục được Việt Nam, nếu tiếp tục có động thái quân sự quy mô để cho Việt
Nam thêm “bài học” thì cũng không cứu được thây ma Ponpot hay nhận được sự khâm
phục tôn trọng chữ “tín” hư ảo của Thailand ở phía mặt trận Tây-Nam nhưng cái
giá phải trả giá lần nữa bằng nhân mạng, tài lực và uy tín chính trị là quá lớn
và chỉ là sự càng phơi bầy các yếu điểm của quân giải phóng Trung Quốc trước
Hoa Kỳ và Liên xô là 2 đối thủ chiến lược, cùng là càng làm tăng thêm lòng căm
thù của người Việt vốn đã có dấu ấn không tốt đẹp qua các triều đại phong kiến
Trung Quốc.
Trong cái thế thượng phong trên mặt
trận Tây-Nam sau chiến dịch phản công toàn tuyến kết thúc vào 7/1, trong giai
đoạn 1979/1980 quân đội Việt Nam đã tái phối trí lại các lực lượng các đơn vị
cơ hữu trên chiến trường Cambodia, ngoài một số các đại đơn vị chủ lực thiện
chiến được điều về tăng cường cho tuyến biên giới phía Bắc, các đơn vị cơ hữu
còn lại trên chiến trường là quân đoàn 4 và các sư đoàn trực thuộc các quân khu
5, 7 và 9. Bộ tư lệnh 719 được thành lập
để chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam tại Cambodia, mỗi khu chiến thuật được
thành lập một mặt trận đảm nhiệm an ninh địa bàn song song giúp bạn xây dựng
chính quyền trên khu vực lãnh thổ 3-4 tỉnh bao gồm các Mặt trận 479, 579, 779
và 979.
Trong bối cảnh tái phối trí lực lượng,
trung đoàn 55 thuộc sư đoàn 310 đã được điều động rời khỏi thị trấn Bosknor về
đồn trú tại xã Thạnh Bình-Tân Biên-Tây Ninh vào đầu năm 1981, sau đó 3 tháng
trung đoàn 55 được tách khỏi sư đoàn 310 trở thành trung đoàn cơ động cho Mặt
trận 779, cuối tháng 3/1981 trung đoàn 55 cải danh thành “Đơn vị 37085” lên đường
sang Cambodia làm nghĩa vụ quốc tế trên địa phận của đoàn chuyên gia 7702
CampongCham, sở chỉ huy trung đoàn 55 đứng chân tại thị trấn Memut trên trục lộ
7, khi sang K lần thứ 2 với bộ sậu chỉ huy gồm thiếu tá Ma Quang Thụy trung
đoàn trưởng, trung đoàn phó tham mưu trưởng là đại úy Giảng tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 1 lên, chính ủy trung đoàn là đại úy Miễn, chủ nhiệm chính trị thượng úy
Khiêm và chủ nhiệm hậu cần là thượng úy Thao, trung đoàn 55 trong giai đoạn đầu
ngoài các đại đội trợ chiến còn có 4 tiểu đoàn bộ binh (được tăng cường thêm tiểu
đoàn 14 của tỉnh Tây Ninh) mấy tháng sau đó tiểu đoàn 1 của trung đoàn 55 được
cắt về trung đoàn 4 làm nhiệm vụ huấn luyện đào tạo hạ sĩ quan đồn trú tại ngã
3 Kret, tiểu đoàn 14 được cải danh lại thành tiểu đoàn 1 do thượng úy Lê Đăng Đại
làm tiểu đoàn trưởng đứng chân tại phum Dar cách trung đoàn bộ 7Km vể phía Tây,
tiểu đoàn 2 do thượng úy Nguyễn Hồng Quang làm tiểu đoàn trưởng đứng chân tại
xã Chamka Thmay cách tiểu đoàn 1 hơn 5Km về hướng Bắc Đông Bắc, tiểu đoàn 3
không phải là tiểu đoàn 3 cũ của trung đoàn 55 mà là tiểu tiểu đoàn 3 của tỉnh
Đồng Nai do đại úy Nguyễn Thanh Bình làm tiểu đoàn trưởng được cắt về khi trung
đoàn sang Cambodia đứng chân tại phum Sla lộ 7 cách trung đoàn bộ 9Km về hướng
Đông Bắc.
Về đại đội trinh sát của tôi cũng có
sự thay đổi về nhân sự, thiếu úy Quân chính trị viên được điều lên ban chính trị
trung đoàn làm trợ lý kiểm tra, chuẩn úy Toàn lên chính trị viên đại đội, thượng
sĩ Đề thân mến của tôi và trung sĩ Thang trung đội phó trung đội 1 được phục
viên, về cơ cấu cấp trung đội thì trung đội 3 được tái lập do thượng sĩ Bùi Sâm
từ tiểu đoàn 14 được điều về làm trung đội trưởng, sau đợt bổ sung quân số lính
nghĩa vụ có gốc ở Tây Ninh quân số toàn đại đội tăng lên là 85 người.
Thật ra mà nói quân đội của chúng ta
đã đánh quá nhanh thế như chẻ tre khi tiến hành phản công toàn tuyến nên sinh lực
địch bị tiêu diệt chỉ một phần, đại bộ phận quân đội Ponpot tan rả và tháo chạy
bởi mất tinh thần trước một quân đội với những binh đoàn thiện chiến gắp nhiều
lần. Vào mùa khô 1980-1981 bộ tư lệnh
719 đã phát động các chiến dịch mạnh mẻ truy quét tàn quân Ponpot dọc tuyến
biên giới Cambodia-Thailand kéo dài từ SixoPhon đến Tà Sanh, PhnomMelai, Ampil,
AnlongVeng và PretVihia, quân tình nguyện Việt Nam của mặt trận 479 tham gia
trong đó có các sư đoàn 309, 317 và sư đoàn 9 của quân đoàn 4 và sư đoàn 5, riêng
sư đoàn 302 đảm nhiệm khu vực núi Hồng và dãy Đăng-Rết giáp với địa bàn của mặt
trận 579. Chính các hoạt động quân sự của
quân tình nguyện Việt Nam trong thời điểm này đã bốc gở một số căn cứ quan trọng
của Ponpot xây dựng trong nội địa để chờ thời cơ hồi phục lực lượng nhằm phản
công chiếm đất, buộc đám tàn quân phải rút chạy về phía bên kia biên giới
Thailand, một số bộ phận của địch phải tuông vào sâu trong nội địa qua các ngã,
trong đó có một bộ phận từ Bắc SeamReap xuống khu vực núi Chi KampongThom rồi về
CampongCham.
Nhận xét
Đăng nhận xét