42. ĐỜI QUÂN NGŨ - hồi ký của CCB Đức Cường - F320
Những
ngày trở về đất bắc.
Ngay đêm đầu tiên ra bắc, cả đại đội ai cũng
thao thức để viết thư. Báo gia đình đã trở về miền bắc chuẩn bị tham gia đánh
tàu. Ngày hôm sau được nghỉ, cả mấy anh em rủ nhau đi hái chè giúp gia đình. Chủ
nhà là cặp vợ chồng rất vui tính, có cô con gái tuổi đã cập kê đôi má lúc nào
cũng ửng hồng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy nhìn thẳng vào mắt mình và cũng
không bao giờ cô ấy ngồi uống nước chung với anh em bộ đội. Nhưng được cái là rất
ngoan, ai cũng sai được, “một dạ, hai vâng “. Lính ta thì cả năm ở trong rừng. Bây
giờ được nhìn thấy con gái, cứ như bị thôi miên. Có lẽ vì vậy nên họ thường lảng
tránh con mắt “cú vọ “của chúng tôi.
Đơn vị tiến hành luân phiên cho đi phép theo tỷ
lệ. Quán triệt rất chặt chẽ thời gian. Khi có người trả phép thì mới cho đ/c
khác đi. Có đ/c đi phép quá thời gian làm đ/c khác không đi được nên cũng ức chế.
Ưu tiên lính cũ trước, lính mới sau. Lính chiến đấu gan lỳ là thế nhưng ra bắc
hiện tượng vô tổ chức kỷ luật rất nhiều. Cán bộ một số dung túng, lính tráng bỏ
đi chơi khắp nơi. Vệ binh làm việc không xuể. Giai đoạn này đại đội chúng tôi
phải làm trạm ksqs ở tận ngã ba cù vân (gần ga quán triều) để bắt lính vô kỷ luật
hay bỏ trốn về nhà (trốn về rồi lên, chứ không đào nghũ). Các buổi chiếu phim
hay văn công ngoài thị trấn đại từ hôm nào cũng có lính đánh nhau. Vé các đoàn
chiếu phim hay văn công không bán được nên huyện yêu cầu sư đoàn can thiệp. Hơn
nữa ở gần đây có trại thương binh qk1. Thương binh trại này nổi tiếng là rất “gấu”
hệ lụy của căn bệnh công thần. Văn công hôm nào là đánh nhau hôm đó, vệ binh sư
đoàn duy trì trật tự không được và đã xẩy ra va chạm.
Một hôm có văn công ở thị trấn đại từ. Phòng
tham mưu lệnh c20 chúng tôi làm ksqs giao nhiệm vụ lập lại kỷ cương. Sau khi ra
bắc quân hàm đã được phát, mũ cứng đã được bổ sung, lính ra đường không đúng
tác phong là “tóm “ngay. Ngày đấy có văn công là cứ như ngày hội. Từ trong bản
mường heo lánh người ta cũng kéo nhau đi xem. Để bảo đảm an ninh, hai cổng soát
vé đều có chúng tôi bảo vệ. Chúng tôi đeo băng đỏ, mang nguyên cả trang bị dây
lưng chiến đấu, duy trì kiểm soát vé trực tiếp. Chúng tôi dự kiến phương án đề
phòng việc bị ném đá ở xa. Vì vậy bố trí cả lực lượng bảo vệ vòng ngoài.
Tối đó, theo thói quen, thương binh quân khu1
ngang nhiên kéo cả đoàn và bảo kê cho người ngoài vào cổng vé rất tự do. Đi đầu
là tốp cầm tó rất hung hăng. Đ/c quý đại đội phó rất giỏi võ (là giáo viên võ
thuật của đơn vị) công bố:
-ai có thẻ tb hoặc có danh sách của trại giới
thiệu thì tập hợp cho vào.
Mấy chục
tb cứ hùng hổ kể công lao và gây áp lực. Đồng chí đại đội phó nói tiếp:
-các
đ/c đừng kể công. Các đ/c chí mới đánh nhau mấy tháng còn chúng tôi đánh nhau từ
thời đánh mỹ vẫn chưa được về thăm nhà. Nếu ai xô vào là sẽ bị bắt.
Cậy người đông lộn xộn họ giơ tó đánh để tràn
vào. Đ/c đại đội phó lệnh “đánh”. Chỉ trong nháy mắt bảy, tám vị tb cầm tó đã
ngã sóng xoài. Số đứng ngoài bị ts vòng ngoài khóa tay khi tay vừa cầm đá đưa
lên chưa kịp ném. Chúng tôi bắt nhốt trong thùng xe đốt mà bên k chuyên dùng để
chở tử sỹ. Phải mất hai chuyến mới chở về đ/v hết. Tối hôm đó, chúng tôi cho ngủ
không màn. Mãi gần trưa hôm sau lãnh đạo trại đến xin chúng tôi mới cho về. Trước
lúc ra về, anh em tb qk1 thấm thía bài học và cảm ơn. Còn chúng tôi không quên
bắt hứa chấp hành ngiêm kỷ luật qđ. Trật tự khu vực từ đó đi vào ổn định (có
bác cựu bgpb nào tb ở trại này giai đoạn đó không?)
Ở trong nhà dân khoảng một tháng chúng tôi làm
doanh trại và ra ở tập trung. Nơi ở mới là nông trường chè tân -việt- hoa, thuộc
xã hoàng nông. Chúng tôi phải phát chè để làm doanh trại. Xung quanh nhà toàn
là chè “vô chủ “. Vì người hoa là chủ nhân ở đây, họ đã cùng gia đình hành
hương cả. Chúng tôi tự ngắt búp chè, tự sao để uống. Cũng may ở trong dân một
tháng mà học được cách sao chè ngon. Chính những năm tháng ở đây nên cho đến tận
bây giờ tôi vẫn rất ngiện trà thái. Mặc dù được đại đội trưởng rất thiện cảm
nhưng tôi vẫn chưa được về thăm quê. Một số đ/c quê ở gần, người nhà chủ động
lên đơn vị thăm con.
Thời
gian này chúng tôi mới có dịp đi xuống các đơn vị trong sư đoàn tìm đồng hương
để biết ai còn, ai mất. Trung đoàn 64 đóng ở xã phú cường (cây đa đôi), trung
đoàn 52 ở chân đèo khế-núi hồng, trung đoàn 48 đóng ở ngã 3 cù vân. (năm 2007
chúng tôi tổ chức kỷ niệm 30 năm ngày nhập nghũ. Thống kê con số chính xác. Có
270 đ/c hy sinh, trong 1000 người huyện nghi lộc nhập nghũ năm 1977 vào qđ3).
Tháng
10/ 1979. Đại đội cử một số đồng chí trinh sát giỏi, có kinh ngiệm về “binh yếu
địa chí “cùng trinh sát các trung đoàn 48, 52, 64 tập huấn 2 ngày về tình hình
chiến sự và địa hình hai tỉnh cao bằng – lạng sơn. Sau đó tiến hành đi thực địa
trên biên giới hai tỉnh đó. Trong số tuyển chọn đi lần này có tôi…
Nhận xét
Đăng nhận xét