42 - NGÃ 3 CHÓP - BIÊN GIỚI TÂY NAM HƯỚNG SƯ ĐOÀN 7 BỘ BINH
Chúng
tôi tới bờ mương ngang thì rẽ trái cứ dọc bờ mương
đi vào, một số anh em C3 đã thay chốt xong và họ đang
trên đường quay ra họ rất phấn khởi sau 1 tháng 15 ngày
trên chốt bây giờ được thay họ sẽ sinh hoạt thoải
mái hơn sau nhiều ngày căng thẳng, gặp nhau không chào
không hỏi họ lặng lẽ đi chúng tôi tránh nhau trên cái
bờ mương nhỏ, nếu ai có nói gì với nhau thì cũng chỉ
thì thầm nói, địch cách vị trí chúng tôi nhiều nhất
là 300m, đối diện bên kia là chốt địch điểm gần
nhất là hầm tiền tiêu của mình với chốt địch là
khoảng 200m, một khoảng cách mà tử thần luôn ở giữa
cho cả 2 bên bất kể lúc nào cũng có thể ghé thăm không
báo trước, trong đêm tối hình như đich thấy có điểm
khác lạ bên này chốt nên thỉnh thoảng chúng bắn qua
những tràng đạn dài từ những khẩu trung liên hay đại
liên của địch.
3 anh em tôi vào thay vị trí
hầm bên này bờ mương thẳng cánh trái của C bộ C2 lên,
từ hầm chúng tôi nhìn chéo về C bộ khoảng 250m, C bộ
C2 nằm dưới bên kia bờ mương trong một ngôi nhà ngói
đỏ trên sàn gỗ cao giữa một lùm cây rậm rạp với
những cây dừa cao bên ngoài những cây thốt nốt, từ
vị trí này có thể quan sát cả trận địa chốt C2 rất
rõ.
Hầm của chúng tôi nằm trong một ngôi nhà lá trên cái dãy nhà lá thẳng tắp bên này mương nước, bên kia bờ mương cũng vậy, đây là dãy nhà kiểu công xã loại bét của chế độ Pôn Pốt, nó tạm bợ đến mức nghèo nàn trên mức sống bình thường của một con người, bên trong cái nhà đó đã được lính VN chúng ta đắp thành cái hầm ngủ tránh đạn và một cái hầm chữ A tránh pháo kiên cố, đất được đắp dày chung quanh hầm, sàn gỗ kê cao hơn mặt nước 10cm ẩm thấp hôi hám.
Trần hầm tránh đạn cũng là chỗ ngồi nghỉ ăn cơm hay mọi sinh hoạt khác cao có thể ngồi được không chạm đầu, hầm tránh pháo chữ A thì nước ngập quá nửa ngay bên cái trái nhà gần cửa ra vào, khi có biến động chúng tôi sẽ vận động trên cái cầu gỗ ra hố chiến đấu, hố chiến đấu là 3 cái chum bằng xi măng của dân cũ được đặt chìm xuống nước rồi đắp đất chung quanh không cho cái chum đó nổi lên, trên đắp bờ cao dày tránh đạn và nếu tình huống xảy ra chúng tôi sẽ chiến đấu nổi trên mặt nước và điều chắc chắn kẻ địch thì ở dưới nước rồi.
Tôi lội thử kiểm tra độ sâu của nước đứng đến thắt lưng, trước mặt hầm của tôi là khoảng nước ngập mênh mông với những cây lúa mọc lên từ những gốc rạ chìm dưới nước, bên phải hầm là cái gò mỏng nghe nói xưa là cái chuồng bò cũ khi mùa nước lên với dăm cây thốt nốt với những cành lá khô treo lủng lẳng, những ngày gió thổi lá cào vào nhau nghe sột soạt, tôi và anh Phong dùng súng AK có kèm theo vài quả M72 để bên hố chiến đấu còn anh Đấu thì vác khẩu B40, trong 3 hố chiến đấu có mỗi hố 2 quả mìn Clay mo dây điện màu nâu kéo về tận miệng chum chỉ cần bóp mạnh là nó sẽ nổ, anh em C3 bàn giao trận địa nhanh chóng rút về, anh em tôi phân công nhau gác anh Phong gác trước rồi đến tôi sau tôi là anh Đấu rồi vòng lại lần thứ 2 thì trời sáng, tôi thì chưa biết gì nhưng anh Phong và anh Đấu thì đã có nhiều kinh nghiệm rồi, ai cũng muốn gác cố thêm một chút cho đồng đội ngủ thêm chút nữa nên có hôm hết ca gác của tôi thì trời đã gần sáng.
Anh em tôi ở với nhau như vậy, ngày thay nhau ngủ hoặc nói chuyện chơi tối thay nhau gác, cuộc sống buồn tẻ hơn bao giờ hết, thỉnh thoảng anh phong bỏ đi sang hầm khác chơi cùng anh em, những lúc ngồi với nhau anh em chúng tôi bảo ban nhau nếu địch đánh vào cấm ai được bỏ chạy, nếu ai chạy sẽ bị chính đồng đội của mình hạ gục ngay và nếu không chịu được nữa bắt buộc phải bỏ chạy thì cả 3 anh em cùng chạy.
Nhưng tôi mong rằng chúng tôi không phải
bỏ chạy như vậy, nhiều lần tôi đã tự nhủ với
lòng mình nếu đánh nhau có chết thì thôi nhưng không thể
bỏ chạy hay đầu hàng kẻ địch, giờ phút đầu tiên
về đơn vị tôi đã được khuyến cáo cuộc chiến tranh
này không có tù binh, một cuộc chiến không có điều
khoan nhượng khi đánh hoặc ta chết hoặc kẻ địch phải
chết, đầu hàng kẻ địch thì coi như cái chết sẽ đến
gấp 2 lần vì sự tàn bạo của kẻ thù, chúng không từ
bỏ một hành động dã man nào đối với tù binh và chính
quyền của chúng chẳng có cái luật nào đối với người
bên kia giới tuyến. Nói ngắn gọn là chúng tôi phải
chiến đấu đến cùng và ở đó mới có con đường sống
mà trở về.
Hoặc nằm xuống như bao người
hoặc cũng trở về như bao người khác đó là luật chiến
tranh của biên giới Tây nam.
Hàng ngày, hàng
đêm địch luôn bắn súng sang chốt của ta nhưng bên này
thì không cho chúng tôi bắn lại, chỉ được bắn khi
địch vào nên địch luôn ở thế áp đảo trên trận
địa, ta đưa mặt chịu trận còn địch thì chủ động
trên trận địa, thỉnh thoảng trên tiền tiêu có phản
kích lại nhưng rất yếu ớt rồi im hẳn, địch luôn
bắn cối 82ly vào hầm tiền tiêu, mỗi lần cối nổ
lòng tôi xót hết cả ruột lo lắng cho những thằng bạn
của tôi nằm trên đó, thằng Thắng và Hùng bên B1 đều
trên đó cả còn tôi bên này coi như yên.
Khoảng 1 tuần đã có anh em trên hầm tiền tiêu bị thương được chuyển về nhưng lệnh không được bắn trả vẫn được ban bố. Ai có hiểu tình huống này thì hiểu nhưng riêng tôi lúc này thì không hiểu với tôi mình nên ăn miếng trả miếng với kẻ địch, mình im lặng mãi như vậy không phải sợ tốn đạn bởi những thùng đạn dưới chân chúng tôi rỉ hoen rỉ hoét cũng cần bắn đi nếu không sẽ vứt bỏ, nhưng lệnh vẫn là lệnh và chúng tôi phải chấp hành.
Nhận xét
Đăng nhận xét