23 - NGÃ 3 CHÓP - BIÊN GIỚI TÂY NAM HƯỚNG SƯ ĐOÀN 7 BỘ BINH
Chúng
tôi tới ga Ninh bình, đoàn xe chạy vào con đường với
hàng phi lao gần cái núi đá vôi cạnh ga rồi dừng lại,
tất cả xuống xe, từ đây có thể nhìn thấy rất rõ
nhà ga Ninh bình, một sân ga vắng ngắt với bụi bặm cũ
kỹ, chính nơi đây đã là nơi tiễn đưa với nhiều
đoàn Bộ đội năm xưa vào Nam đánh Mỹ và cũng hôm nay
nó là nhân chứng cho cuộc chuyển quân của đoàn tôi
cũng vào Nam nhưng trong thời hòa bình, ít nhất là như
vậy lúc này.
Cũng khoảng gần 5h chiều một
đoàn tàu hỏa chạy từ hướng HN vào ga, nó cũng như
những đoàn tàu chở khách khác nhưng chưa có người với
cái biển treo bên sườn tao tàu, đoàn tàu quân sự.
Chúng tôi bắt đầu hành quân bộ vào ga, từng
C từng B với ba lô trên vai đi vào ga, khi tôi đi ngang
cái barier chắn tàu thì gặp bố Vĩnh đứng đó, bố
nhìn chúng tôi mặt buồn như muốn khóc, bố biết chúng
tôi sắp phải ra mặt trận thì phải, nhiều năm sau tôi
vẫn còn nhớ nét mặt của bố khi đó, bố thương những
thằng lính trẻ chúng tôi sắp phải đối đầu với
những trận chiến đấu ác liệt với nhiều khó khăn vất
vả hy sinh. Còn chúng tôi thì không biết gì lúc này,
mặt thằng nào cũng nhơn nhơn ra cười nói như đang đi
ăn cưới không bằng, ngây thơ một lũ với nhau quá.
Thực ra lúc này tình hình thời sự bên trong rất căng
thẳng một cuộc chiến chưa công bố đã có từ lâu rồi
mà chúng tôi không biết, nếu có biết cũng chỉ hiểu
rằng đì đùng biên giới tý chút thôi chỉ cần vài trận
đánh nhỏ với hội nghị trên bàn giấy của cấp chính
phủ là trật tự sẽ được lập lại, thiếu gì người,
thiếu gì bộ đội mà phải mang mấy thằng lính mới
kính coong chúng tôi ra chiến đấu. Vậy là vô tư lên
đường lòng không hề một gợn suy nghĩ.
Tôi
đi ngang chào bố Vĩnh bố ôm lấy vai tôi và nói lời
chia tay trong nghẹn ngào
- Đi cẩn thận con nhé.
Nhiều năm sau tôi vẫn còn suy nghĩ bởi câu nói
này của bố Vĩnh, nếu chúng tôi về những đơn vị
kinh tế bình thường khác thời đó thì đâu cần bố
phải dặn dò đi cẩn thận và không cần phải chia tay
trong nghẹn ngào của bố như vậy, những hành động và
lời nói đó chỉ dành cho những cuộc chia tay với người
đi vào nơi ít có khả năng trở lại. Chứng tỏ khi đó
bố Vĩnh đã biết nơi chúng tôi sẽ đến và ở đó có
gì đang chờ đợi những thằng lính trẻ chúng tôi, nơi
đó là mặt trận biên giới Tây nam của Tổ quốc.
Chúng tôi lên tàu quân sự, chỉ huy cuộc hành
quân là một anh đeo quân hàm trung tá với cái băng đỏ
nơi cánh tay với dòng chữ Chỉ huy hành quân, anh này
người ở đâu chúng tôi không hề biết đây là lần đầu
chúng tôi gặp, anh chạy ngược chạy xuôi khắp đoàn
tàu kiểm tra đôn đốc sắp xếp chỗ cho anh em, C18 chúng
tôi có một bộ phận ngồi chung toa với C19, tôi cũng
trong số anh em đó, trên toa lẫn lộn lính của cả 2 C
và vẫn sinh hoạt theo C của mình, gần như A 13 của C18
đều có mặt trên cái toa chung này, toàn thằng mặt rắn
của C18 cả, một số anh em HNN cũng ngồi lẫn ở đây,
mỗi người mỗi ghế 3 ghế một dãy, ba lô trên giá cửa
kính và cửa lưới bảo vệ mở toang cho mát và cũng tiện
khi muốn vứt cái gì xuống đường.
Tiêu chuẩn ăn của lính chúng tôi khi huấn luyện đã được bao cấp là 1 đồng /ngày nhưng khi đi hành quân bằng tàu hỏa thì được nâng lên 3 đồng / ngày, khẩu phần ăn gấp 3 bình thường và nhà ăn ở đầu đoàn tàu, hàng ngày 2 lần tới bữa ăn thì phải đi lên phía trên rất xa vì chúng tôi nằm ở toa cuối, bữa sáng bánh mỳ có thịt được phát tới tận chỗ ngồi, anh Sướng cùng anh em cán bộ khung khác của D5 nằm giải rác khắp đoàn tàu.
Một cuộc hành
quân vào Nam mà những người lính chúng ta thời KCCM có
nằm mơ cũng không có, lớp chúng tôi thời hòa bình cũng
có khác và chúng tôi may mắn hơn những lớp đàn anh rất
nhiều.
Tàu từ từ chuyển bánh bỏ lại phía
sau cái nhà ga và bố Vĩnh của chúng tôi vẫn đứng trên
cái sân ga đó đưa tay vẫy theo chúng tôi cho đến khi
chúng tôi không còn nhìn thấy bố Vĩnh nữa, tàu chạy
xiên qua đêm tối bên dãy núi đá vôi và những thửa
ruộng của tỉnh HNN chạy mãi, chạy mãi không dừng.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi tới ga Vinh và nằm
lại đó chờ tránh tàu cho đến 8h sáng mới chạy tiếp,
những cánh rừng khô cằn của tỉnh Nghệ tĩnh trơ chọi
những quả đồi, một vùng đất Anh hùng năm xưa trong
chiến tranh chống Mỹ chưa có bàn tay con người xây dựng
lại, hố bom cũ 2 bên đường tàu chi chít, rồi Quảng
bình cũng tụt lại phía sau, Quảng trị cát trắng đồi
sim tím bạt ngàn.
Xứ Huế mộng mơ nghèo
xác xơ ga Huế vắng hoe dộn tiếng mời chào mua kẹo mè
xửng, vài ba gánh bún bò lác đác nơi sân ga, quê hương
tôi đây rồi, ở đây tôi có bao người thân họ hàng
dòng tộc, mồ mả Tổ tiên của tôi cũng nằm cả ở
đây, hòa bình đã hơn 3 năm rồi sao quê hương tôi vẫn
quằn quại trong đói nghèo, cũng có thể xứ này khắc
nghiệt quá, người dân chăm chỉ làm ăn vậy mà vẫn
nghèo con người ai cũng khắc khổ sạm đen bởi gió Lào
và sóng biển, bù lại giọng nói Huế nghe ngọt ngào dễ
thương tà áo dài tím bay bay trên cầu Tràng tiền làm
ngây nhất lòng du khách.
Tàu chạy qua quê tôi
cách thành phố Huế 27km, nhà bà Nội tôi cách đường
tàu 200m với cái ga Truồi gần con sông, tôi viết vội
mấy dòng thư vứt xuống đường cho người hướng dẫn
tàu vào ga nhờ đem vào nhà giúp, chẳng hiểu có tới
tay người nhà không nhưng làm vậy tôi cũng thấy yên
lòng trước lúc đi xa, còn vài trăm mét nữa thôi mà tôi
không thể về nhà được, đứng ở đây ban ngày nhìn
kỹ sẽ thấy nóc nhà tôi vậy mà 15 năm sau tôi mới về
được tới nhà, một khoảng cách rất nhỏ cho cuộc đời
nhưng đôi khi cũng cần thời gian rất dài mới làm được,
đó là nghịch lý của cuộc đời.
Nhận xét
Đăng nhận xét