54. BIÊN GIỚI TÂY NAM - Trung sỹ
Đây
ngã ba lộ 27 rẽ vào ga Rômeas, điểm đầu tiên của một đường khép kín với chu vi hàng
trăm km mà tôi đã đi qua và bây giờ gặp lại. Cung đường đó đã thấm biết bao mồ hôi
và máu của những người lính cùng đơn vị. Phía xa xanh trong rừng núi kia, trung
đoàn tôi đang hành quân về đâu? Đánh địch ở nơi nào? Anh Nhương, anh Ky, thằng Mạnh,
thằng Ban trố… đang làm gì? Đeo máy đi với đại đội 2 hay đại đội 1? Những ai còn
và ai đã mất?
Một cảm
giác ân hận khiến tôi cúi đầu xuống vuốt ve khẩu súng. Mùi thép lạnh, mùi dầu
luyn và hơi thuốc súng vẫn còn như phảng phất ở đầu nòng. Bỗng dưng, tôi thấy
nhớ đơn vị. Nhớ cái “gia đình” của toàn những thằng đực rựa đôi khi chẳng tiếc
nhau gì mạng sống. Đôi khi lại lao vào tẩn nhau chí tử chỉ vì một câu bôi bác quá
lời… Đến đây chắc sẽ có bạn bảo tôi là thằng nói láo! Nhưng nó thế đấy! Không giải
thích được vì tôi không phải chuyên gia tâm lý. Chó chết thật! Nhớ nốt cả cái
mùi ngòn ngọt đăng đắng của liều phóng, mùi thơm hắc của thùng đạn mới khui. Nhớ
tuốt…!
Nhưng
nỗi nhớ mẹ, nhớ em còn lớn hơn. Bây giờ lớn “nhơ nhỡ” rồi, không biết “nếu thời
gian có quay trở lại” thời đó thì tôi sẽ xử lý như thế nào?
Đến Ô
Đông, chiếc xe ngoặt vào một con đường nhỏ rồi dừng lại trước một cái quán. Phụ
xe nhảy lên, nhờ chúng tôi giúp một tay lăn xuống phuy dầu. Thùng dầu nhanh chóng
mất hút trong gầm sàn quán. Đây là mánh của mấy ông tài xế. Chắc đây là mối ruột
của anh Tư nên mọi sự không cần nhiều lời. Chỉ một loáng, đoàn xe lại lên đường.
Đến
Ph’nom Pênh thì trời đã tối. Thủ đô lác đác có những đường phố có điện. Những hàng
ăn bơm đèn măng sông sáng trưng. Anh Tư lại kéo cả đoàn đi ăn. Chúng tôi chén xong,
mắc màn ngay trên thùng xe đi ngủ ngay. Đội tài xế kéo nhau đi uống cà phê sau khi
thảy cho hai thằng tôi gói Samit. Nằm duỗi dài khoan khoái phì phà khói thuốc, tôi
thầm tự bằng lòng với cung Di trong bảng tử vi của mình. Đi đâu cũng có quý
nhân phù trợ.
Đoàn
xe vượt cầu Sài gòn (Mô ni vông) lúc mờ sáng. Chú lính kiểm soát quân sự ngái ngủ
chống cằm trong trạm nhìn theo chúng tôi. Thế là thoát một trạm! Đây rồi khu vườn
sabôchê nơi tiểu đoàn 4 chốt gần Tết năm ngoái. Những ngôi nhà sàn cắm chân
trên những đìa nước sâu hoắm không bao giờ cạn nước kể cả mùa khô. Phà Niek
Luong dào dạt sóng, Kampong T’ra Bêch xanh mát và trù phú. Kia là cái nhà sàn
buổi trưa chờ xe sư đoàn năm ngoái tôi đã leo lên đánh một giấc…S’vây riêng, cầu
Prasaut, ngã ba Chi phu…
Càng gần
về đến Việt nam, chúng tôi càng sốt ruột. Mà xe thì cứ chạy chậm như rùa bò. Cuối
cùng thì trạm kiểm soát biên giới cũng hiện ra. Lúc đó đã quá trưa một chút. Tôi
hồi hộp quá. Nếu quân cảnh có kiểm tra thì tôi sẽ trình giấy ra viện, giấy cung
cấp tài chính. Thời hạn còn những hơn một tháng nữa cơ mà! Cứ bình tĩnh nào!
Anh Tư
xuống trình giấy tờ gì đó. Người lính gác biên nhìn giấy, nhìn lên hai thằng
lính khoác súng đứng trên thùng xe rồi khoát tay cho đi. Ôi trời…! Thoát rồi!
Còn mỗi trạm Suối Sâu nữa thôi!
Bốn giờ
rưỡi chiều hôm đó, chúng tôi chia tay anh Tư ở ngã tư Bảy Hiền. Đã hàng chục năm
trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in gương mặt và giọng nói của anh. Có những con
người chỉ gặp một lần thoáng qua, thậm chí còn chưa hề nói chuyện nhưng đôi khi
ta vẫn nhớ mãi cái khoảnh khắc ấy, đôi mắt ấy. Huống chi là đã là ân nhân, đã
đi chung với nhau một quãng đường dằng dặc. Chẳng biết bao giờ mới gặp lại
nhau!
Nhận xét
Đăng nhận xét