32. BIÊN GIỚI TÂY NAM - Trung sỹ
Cuối
tháng 4 năm 79, các đơn vị địch đã tan rã gần hết. Tàn quân địch rút về thị trấn
Leach. Đại bộ phận sư đoàn 9 đã tiến về đó đánh địch còn trung đoàn 2 vẫn dềnh
dàng đi sau chặn hậu. Trong bản đồ quân sự, cái thung lũng lớn mà trung đoàn
tôi đang hoạt động, từ đó có đường rẽ đi nhà ga Bâmnak (dân gọi là ga Bom nọ)
được gọi là “mục tiêu A3”. Địa điểm này có vị trí cực kỳ quan trọng, gần như là
nơi tiếp giáp của bốn tỉnh Kampong Ch’nang, Pursat, Kampong S’Peu và Kô công, nằm
ở phía nam Leach theo đường chim bay chừng 25km.
Tiểu
đoàn tôi cứ đi quanh đi quẩn trong các hẻm núi dường như chưa bao giờ có dấu
chân người. Có những nơi vòng qua vòng lại mấy lần. Lính mà! Có lệnh đi thì cứ
đi, có lệnh nghỉ thì lại nghỉ. Tàn quân Pôn Pốt bấy giờ chưa kịp phục hồi như
sau năm 80. Kiếm ăn còn khó chứ đừng nói gì đến đánh đấm. Dân lành bị lùa theo
tìm cách tháo chạy trở về quê cũ, nhưng chưa hiểu nên cũng tránh bộ đội Việt Nam.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một đám nhỏ ở trong rừng. Họ đói. Họ rách rưới
và hoang dại như một đám người rừng. Các bạn xem trên TV, thấy những em nhỏ
trong nạn đói ở Phi châu bụng ỏng đít beo, ruồi bâu đầy miệng không buồn đuổi hẳn
là thấy rất xúc động.
Trong
miền rừng sâu thăm thẳm này, chúng tôi đã gặp những cảnh tương tự. Thậm chí còn
thê thảm hơn thế nữa. Đơn vị gom lại, chia cho những con người khốn khổ ấy những
ruột tượng gạo bé nhỏ của người lính rồi chỉ lối cho họ ra phía đường lớn.
Vào một
buổi trưa, khi đang cắt rừng tìm suối, chúng tôi gặp một đám phụ nữ chừng bảy
tám người nằm ngồi quanh một cái xe bò gãy trục. Thấy bọn tôi, hai người đàn
ông trong nhóm chống hai con dao quắm run run đứng dậy, chắc là để chuẩn bị chiến
đấu. Xương sườn, xương bả, xương ống bọc dưới lớp da đen nhờ, lộ như một tiêu bản
thạch cao. Họ đã gần như lả đi. Không thể nói tuổi của họ bao nhiêu khi mà tất
cả sợ hãi, khổ đau, tuyệt vọng và đói khát đã in hằn trên khuôn mặt. Những
khuôn mặt không có tuổi! Không biểu cảm! Và dường như ở một thế giới khác! Câu
chào ”Xamaki!” của cán bộ dân vận trở nên giống như một lời xa xỉ giả dối! Anh
Ky móc cóc ba lô chìa nắm cơm ra. Từng ấy cặp mắt sáng lên nhìn vào. Thằng Phượng
”bọ” y tá đại đội 1 (thay cho thằng Thư đi học) giằng lấy nắm cơm ấn vào chỗ cũ,
gọi anh nuôi nổi lửa nấu ngay nồi cháo loãng.
Cháo
chín được chia ngay thành từng suất nhỏ. Lập cập giọt rơi giọt vãi, nồi cháo
cũng dần hết. Thằng Phượng giải thích là nhịn đói lâu, phải ăn hạn chế như thế
mới không bị sốc. Một bà mẹ cầm ca cháo đến chiếc xe hỏng, lật chiếu lá lên định
bón cho thằng bé con. Nhưng cháu bé đã chết. Bên cạnh nó là một cái gùi. Trong
gùi, một cẳng tay sấy khô nằm lăn lóc cạnh mấy nắm lá giang. Chứng kiến, không
ai nói được một lời nào. Tất cả đều im lặng quay đi. Không phải là vì sợ, mà vì
hình như thấy đau khổ quá! Một sự im lặng cùng cực…! Lúc ấy, tôi chỉ muốn rống
lên thôi! Đơn vị lặng lẽ chôn cất cháu bé. Bà mẹ cũng không khóc một tiếng nào.
Thêm một mất mát trong cả ngàn vạn mất mát có ý nghĩa gì! Đến chiều, cho ăn uống
như bình thường xong, chúng tôi chia gạo rồi vừa dìu, vừa dẫn họ ra tận sát mé
đường, nơi đã nghe tiếng ầm ì của xe pháo của trung đoàn 42.
Nhận xét
Đăng nhận xét