3. BIÊN GIỚI TÂY NAM - Trung sỹ
Tuy tiểu
đoàn bộ nằm lui về sau đội hình nhưng vẫn tổ chức gác ba vọng đề phòng địch bâu
bám mật tập. Tôi đã biết định vị sao Tua Rua để căn giờ gác. Trong đêm, nếu ếch
nhái đang rỉ rả ầm ĩ mà tự nhiên im bặt, hoặc chim đêm trong chòm cây phía trước
bỗng dưng xao xác là phải coi chừng. Luồn hào về bấu tay anh em dậy rồi trở lại
vị trí gác ngay. Hãy cúi thật thấp sát mặt đất, dùng nền trời đêm sáng mờ làm phông
sẽ dễ phát hiện địch hơn. Lại còn muỗi mới khiếp. Muỗi Chi Phu có họ với muỗi Đồng
Tháp mười, con nào con nấy to như con châu chấu con. Áo ka ki ga ba đin không
là cái đinh gì. Vòi muỗi xuyên qua hết. Muỗi lăn xả cảm tử xông vào đốt người. Không
được đập vì sẽ gây tiếng động. Cũng không được dùng dầu gió xoa vì ban đêm trên
đầu gió, mùi dầu sẽ lan rất xa. Chỉ được phép vuốt thôi, vuốt đến đâu lép bép đến
đó. Có anh (chắc là con bác Ba Phi) còn kể là hồi mùa mưa, mình nằm trong màn. Muỗi
bâu kín ngoài màn hết lớp này lớp khác, một lúc thì dây màn (dây dù) đứt phựt. Lỡ
để một ngón tay sát chân màn, muỗi châm ngay. Những con khác không châm được
thì châm ngay vào bụng con đang hút máu mình thành một dây chuyền dài hàng mét.
Tóm lại là cũng biết làm ăn theo kiểu hợp tác xã.
Ngày
22/12/1978 - ngày Tết Quân đội. Ngoài tiêu chuẩn mà xe hậu cần B3 chở từ nước sang,
chúng tôi còn tổ chức cải thiện thêm. Tôi xách AK đi dọc bờ mương bắn cá. Đứng rình
một lúc, từng đàn cá sặc rằn to cỡ bàn tay từ từ nổi lên. Thế là: Bụp! Cá láng
trắng nước nhưng phải lập tức lấy màn vớt ngay. Vì chỉ một lát là nó hồi lại. Bố
Nhương lại có kiểu bắt cá khác. Không biết anh ấy kiếm đâu được quả đạn B. 40
lép liền tháo ngòi nổ ra. Buộc vào một thanh tre cứng dài chừng 2m rồi vác xuống
cái đìa cạn gần đại đội 4. Vào xin ít liều cối tọng vào đầu đạn đốt. Thuốc nổ
TNT bắt lửa cháy đen kịt. Thế là cha ấy dí cái dụng cụ bắt cá quái dị ấy xuống
đìa rà đi rà lại một lúc cho thuốc cháy hết rồi lội ào xuống. Quờ quạng rồi
quăng liên tiếp lên bờ những con cá lóc đen bị say thuốc to cỡ bắp tay. Tôi
ngán cái dụng cụ nghề cá ấy quá. Kinh bỏ mẹ! Thôi! Để em xách cá về cho nào.
Điểm
qua thực binh và trang bị của trung đoàn 2 trước chiến dịch giải phóng Phnom Penh:
-
Trung đoàn trưởng: Thiếu tá Nguyễn Như Thạnh.
- Các
ban Tác chiến, ban Chính trị, ban Hậu cần
- 3 tiểu
đoàn bộ binh gồm D4, D5, D6 (tiểu đoàn anh hùng) - tổng quân số khoảng 700 người
- Đại
đội 16: 3 khẩu đội cối 120mm
- Đại
đội 17: 4 khẩu đội DKZ 75mm
- Đại
đội 18: 4 khẩu đội 12. 8 mm
- Đại
đội 19: Công binh - trang bị nhẹ.
- Đại
đội 20: 1 B Thông tin -Vô tuyến máy 15W, 1 B hữu tuyến, 1 B truyền đạt
- Đại
đội 21: Trinh sát - Trang bị nhẹ - AK, M. 79
- Đại
đội 22: Vận tải - 2 xe REO, 1 xe Zeep, trực thuộc B3
- Đại
đội 23: Trạm phẫu, bệnh xá trung đoàn
- Đại
đội 24: Vệ binh - trang bị như đại đội bộ binh, bảo vệ sở chỉ huy trung đoàn, trực
thuộc ban tác chiến.
Thống
kê như thế để thấy rằng tại thời điểm đó, quân số dù đã được bổ sung vẫn còn
lâu mới đủ quân số theo biên chế chính thức của một trung đoàn bộ binh chủ lực.
Chúng ta đã từng xem rất nhiều phim về chiến tranh. Theo tôi, có bộ “Giải phóng
châu Âu” của Liên xô có những cảnh quay chiến tranh thành công nhất. Còn mấy bộ
phim chiến đấu nước nhà muốn chân thực hơn có lẽ phải cho mấy bố làm phim cầm
súng choảng nhau vài năm hãy cho về cầm máy quay. Chiến tranh giản dị đến khắc
nghiệt vô cùng. Diễn tiến tâm lý cũng chẳng lằng nhằng phức tạp trong thời điểm
cận chiến. Mày sống tao chết hoặc ngược lại. Huy động và sử dụng tối đa các kỹ
năng sống sót của con thú. Lăn đi! Nằm xuống! B. 41 đâu? Bịt mồm khẩu đại liên!
Mẹ kiếp! Không sủa, không gầm gừ được thì văng tục! Có thế thôi! Sau này lắng lại,
các xúc cảm con Người trở về, và được sự giúp đỡ của các nhà văn nhà báo lãng mạn
mới hay mình đã chiến đấu vì Đất nước. Kể cũng thấy tự hào…
Nhận xét
Đăng nhận xét