16. Phần 1: Biên giới Tây nam - Từ Đức Cơ đến Chùa Prết Vi Hia
Một buổi
tối anh Trường đi giao ban về, có mang theo thư của anh em, tôi được hai lá, một
bóng hồng ở quê nhà “nơi quê hương em bước vào vụ mới”. Hằng ngày khi ra đồng, em
thấy cha mẹ anh luôn nhìn về hướng Tây xa xôi, với đôi mắt đượm buồn, mong nhớ
về người con trai của mình nơi đó, và từ ngày anh đi, em cảm nhận được tình
thương của cha mẹ anh đối với em, các anh chị ở Quy nhơn về thăm, có quà gì
ngày hôm sau ra đồng em cũng có như vậy, Mẹ anh dạo này hay thường xuyên tâm sự
với em, về những cảnh đời anh đã vượt qua từ thưở ấu thơ, là đứa con duy nhất của
làng quê nghèo Mỹ Cát, Phù Mỹ thi đậu vào trường Trung học Cường Để Quy Nhơn
niên khóa 1970 – 1971, ngôi trường danh giá, mà bất cứ một học sinh nào của tỉnh
Bình Định thời đó, cũng đều mơ ước được bước chân vào. Với bình cà rem trên vai,
đi dọc đường rầy xe lửa từ ga Quy nhơn đến ga Diêu Trì trong cái nắng trưa gay
gắt. Của gió bụi miền trung. Của hơi nóng bốc lên từ những thanh ray…để hoàn
thành chương trình phổ thông. Cổng trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng đã khép lại
với anh, từ thành phố anh lại về với những cánh đồng muối quê mình, và chính
nơi này chúng mình đã gặp nhau, và rồi anh ra đi, bỏ lại sau lưng tất cả với
trăm nhớ ngàn thương".
NHỮNG
NGÀY CHUẨN BỊ CHO CHIẾN DỊCH. (tiếp.)
Phút
chạnh lòng. Khi đọc những dòng chữ trong lá thư, hướng về quê nhà thân thương, còn
cha mẹ già, hai em gái nhỏ chưa đến tuổi lao động. Những khó khăn chồng chất
trong đời sống hằng ngày, một tấn muối bán cho thương nghiệp được 35 đồng, và
nhà nước bán lại cho 13kg gạo/ tấn muối với giá 4 hào/kg. Hai mí mắt cả ngày
không gặp nhau bây giờ là lúc chúng nó tâm sự, tôi chìm vào giấc ngủ vô tư mặc
cho sự đời, ngày mai rồi hãy tính.
Ngày
mai…rồi ngày mai…ngày 22/12/1978 đã đến…
Sáng
hôm ấy, tôi theo bộ phận tham mưu của f đi thăm d9 e29 chốt trên một cứ điểm
phía bắc đường 19, cách điểm cao 312 không xa lắm, mục đích của chuyến đi tôi
không được biết, (sau này, trên đường dẫn e95 vòng sang phía bắc đường 19 đánh
thọc sâu, làm mũi hỗ trợ cho e812 và e31 của f309, đánh tấn công chính diện
trên trục đường 19 vào ngày 28/12) nghe tiếng pháo đề pa tôi hiểu f đã đưa trận
địa pháo về đây, táo bạo và quá bất ngờ khi pháo cùng bộ binh cùng hành tiến.
Nhìn
anh em e29 đóng chốt ai mà không chạnh lòng. Quân áo anh em lúc này gần như tả
tơi, chịu sao nổi với những trận đánh bò lên, lăn xuống khắp các trận địa, với
những tấm lưng oằn gùi đạn, gạo lên chốt, không đủ nước để uống lấy đâu ra để tắm,
vì mò xuống suối là bị chúng tỉa, chúng phục…râu ria nó cũng chán, vì mọc ra
các bố nhà ta có chịu cạo đâu, mà bảo nó mọc thêm nữa… những gương mặt hốc hác,
mắt trắng xác, vì trường kỳ những đêm không ngủ, với chế độ ngủ bù. Trong thấp
thỏm, lơ là là nó cắt cổ.
Thấy
anh em như vậy, Thủ trưởng Cường Tham mưu Sư đoàn mặt tối sầm lại (tôi không hiểu
vì sao) ông hỏi bộ phận hậu cần về khả năng của Sư đoàn. Ông điện ngay cho
Chính ủy Lung (vì Tư lệnh F đi họp ở Pleiku), và đưa ra quyết định tại chỗ là cấp
đủ quân áo, giày, nilon đi mưa cho toàn bộ chốt 29 ngay lập tức. Anh em ai cũng
phấn khởi ra mặt… nhưng đi bên ông, tôi hiểu ông còn một cái gì đó rất áy náy. Và
đây là cái điều thằng lính chốt thích nhất, thích hơn mọi cái trên đời. Thuốc
lào. Anh em nào có qua cảnh này mới thấy, còn không thì bảo là nói dóc cũng
đúng, đang “đói “chứ không phải là thiếu thuốc, mà có ai đó chỉ cho một điếu
thuốc lào chính hãng “Hải phòng “, trong gói nhỏ bằng giấy rơm 50gam, ngồi ung
dung trên mỏm đá, xoe tròn vành vạnh nhúm thuốc… nhét vào nỏ… châm lửa… và kéo
cho tụt. Quần. Luôn. Đừng nhả khói vội. Hãy từ từ. Nuốt vào. Thưởng thức. Ngẩng
mặt nhìn trời thả ra từ. Từ…làn khói trắng đưa anh vào chốn thần tiên. Tuyệt cú
mèo. Tôi thấy thủ trưởng lấy trong túi mìn Claymore ra chỉ trên dưới 10 gói, mà
chia cho hơn trăm người thì cũng chẳng thấm vào đâu, nhưng lính nhà ta khoái phải
biết, (thuốc này Thủ trưởng “chôm “ở đâu chứ bộ đội ai mà cấp thuốc lào. ). Ông
nhanh chóng đến hầm của BCH, đi kiểm tra cách phòng ngự, nắm sơ đồ chốt…về hầm
BCH, thủ trưởng tổ chúc cuộc họp quán triệt một số nhiệm vụ, cũng như đánh giá
tình hình phòng thủ, đưa ra những ý kiến. Tôi ngồi một mình buồn quá… dựa lưng
vào cây bằng lăng trước hầm BCH Tiểu đoàn, lấy thư Đắc Đoa ra đọc… “. Anh ra
đi…em nhìn thấy anh vẫy tay chào, em đã mất đi một cái gì đó thiêng liêng lắm, muốn
chạy theo để nắm lấy bàn tay anh, em chưa kịp nhận ra hơi ấm của nó, để nhìn lại
gương mặt anh, mang hơi thở của cuộc sống, để áp vào lồng ngực anh…
Chiều
hôm đó, sau giờ cơm, em thẩn thơ trước hàng hiên, nơi anh và em ngồi… ghế trước
hàng hiên phòng em. Nhà để xe của nông trường, nơi cơn mưa cuối mùa đã tặng cho
em sự sống, từ đôi môi nồng cháy của anh. Trong sự trinh trắng vô ngần, bừng
cháy trong em nỗi niềm đa cảm.
Chị em
trong phòng cũng hiểu nỗi lòng em, chia sẻ và chúc mừng em. Những dòng toán anh
giải trong vở vẫn còn đó.
Anh ơi!
Thời gian là phần còn lại của nỗi đau, khao khát vẫn còn đó của một thời hoa
phượng, mùa hoa cau tiếc nuối giữa tay người, biết bao giờ gặp lại hả anh! Bên
kia biên giới là cuộc đời anh, là những trận chiến triền miên, là những ngày
trinh sát đầy mạo hiểm. Giữa cái sống và cái chết. Bên đây là cuộc đời em, là
niềm day dứt xa anh không nguôi, vẫn đồng vọng mãi lời chia tay thầm lặng, trong
cái vẫy tay ngày anh ra đi, gió mùa đông đã chớm lạnh se lòng, Đắc Đoa đất lạ một
mùa cau.
Cũng
là một người lính, em chúc anh đi bình yên… em sẽ quay về tìm lại dòng sông, tìm
lại xác thân phiêu bồng một thưở…để có mãi bóng hình anh một nơi nào đó. Mùa
đông Đắc Đoa mùa đông của cuộc đời, mùa đông khi em tròn 19 tuổi…!
Nhận xét
Đăng nhận xét