14. Phần 1: Biên giới Tây nam - Từ Đức Cơ đến Chùa Prết Vi Hia
Một
lát sau anh thanh niên lúc nãy trở về, chở theo hai em học sinh khỏang lớp ba
hay lớp bốn gì đó. Một chị rời khỏi bàn nước, và ra dẫn hai em vào chào anh Trường
và chị khóc to… chúng tôi không hiểu chuyện gì xảy ra, mà nhà này hôm nay khóc
nhiều thế. Anh thanh niên đến ngồi bàn cùng chúng tôi, mời chúng tôi uống nước
ngọt và trà, bánh. Hiểu được thắc mắc của chúng tôi anh bắt đầu kể: Năm 1972
khu này đánh nhau dữ lắm, cả hai phía đều tranh giành nhau QL19, mới buổi sáng
sớm khoảng 8 giờ, cả hai bên bắt đầu đánh nhau, pháo, cối nổ ùng oàng. Lúc này ở
nhà chỉ còn bà chủ quán và mấy đứa cháu đang ngủ, hầu hết đã lên rẫy cách đó chừng
hơn cây số… nhà của bà và xung quanh bị trúng đạn … bốc cháy, tiếng la thất
thanh của bà vì còn hai đứa cháu còn đang ngủ…súng vẩn nổ giòn. Bỗng ba chú bộ đội
xuất hiện từ phía sau rẫy của bà, có một người đã chạy vào trong biển lửa. Trong
lửa bà thấy ông bộ đội cặp nách hai đứa cháu của bà, vượt qua tường lửa, bà hoảng
quá và ngất xỉu tại chỗ. Trận đánh đó giằng co tới trưa mới xong, lực lượng ta
phục kích đoàn xe vận tải của địch ứng cứu cho Pleiku. Người bộ đội đã dũng cảm
lao vào tường lửa, để cứu hai cháu nhỏ chính là anh Trường. Giờ đây hai cháu đứng
trước mặt anh với vẻ ngơ ngác, như nghe bà kể chuyện cổ tích, tôi thấy anh xoa
đầu hai cháu và nói gì đó. Năm 1975 trên đường công tác anh có ghé thăm gia
đình khoảng hơn mười phút, và lần này là lần thứ hai.
Gặp
nhau cũng nước mắt, chia tay nhau cũng nước mắt… chúng tôi lại lên đường xuôi
Hà Tam, trong ánh nắng khá gay gắt của trời tây nguyên…Tôi thấy anh lên xe với
đôi mắt đượm buồn. Tối đến tại nhà khách của viện 249 Pleiku, anh mới kể là tổ
trinh sát của anh đã nằm phục sau nhà bà từ trưa hôm trước, trong các lùm cây gần
nhà tắm và nhà bếp. Chúng tôi có hỏi vui về chuyện “tắm tiên “anh bực mình quá quát
“tiên sư nhà cậu “.
Việc
trinh sát ở Hà Tam cũng chẳng có gì để kể, cũng là những bài tập về địa hình. Chúng
tôi rời Hà Tam lúc hơn bốn giờ chiều để đến Pleiku chuẩn bị cho cuộc trinh sát
thực địa trong thành phố.
Ở Pleiku
hai ngày, chúng tôi xem các ký hiệu vẽ trên bản đồ ở địa hình thành phố, thị xã,
phức tạp hơn ở rừng nhiều lắm, cũng may phố núi này cũng nhỏ, nên chỉ cần một
ngày hơn, là chúng tôi hoàn thành yêu cầu của giáo án, buổi chiều còn lại anh
Trường ôn lại những kiến thức đã được học và làm bài tập. Sau này, khi anh em nằm
chung trên một cánh rừng ở Tân Cảnh, anh mới thủ thỉ tâm sự là sợ chúng tôi đào
ngũ, nên anh bày ra cái chuyện ôn và làm bài tập…
Sáng
hôm sau, lúc chúng tôi gần lên xe đi về hướng Kon Tum, có một sĩ quan hậu cần của
Sư đoàn, đến gặp và trao đổi gì đó với anh Trường, đưa cho anh một bọc giấy. Khi
người sĩ quan kia đi xong, anh Trường mới kêu từng người lại, phát cho mỗi người
15 đồng tiền phụ cấp (binh nhất 7. 5 đồng / tháng), anh em năn nỉ mãi anh mới
chấp nhận dẫn chúng tôi đi mua mấy thứ đồ lặt vặt ở đường Hai Bà Trưng, cả nhóm
lỉnh kỉnh súng đạn, ba lô, đi lòng vòng để mua đồ, dân hai bên phố nhìn chúng
tôi ngơ ngác, chẳng hiểu chuyện gì, vì mấy khi thấy bộ đội mang súng ống đi dọc
đường phố bao giờ đâu.
Khoảng
10 giờ, chúng tôi lên xe, một chiếc GMC của đoàn kinh tế 330…giã từ phố núi
thân thương với những ánh đèn, những ly cà phê, những đôi mắt mơ huyền của thiếu
nữ. Chào tất cả và hẹn ngày gặp lại…Xe chạy theo đường 14 khoảng một giờ thì đến
Kon Tum, đoạn đường cũng gần nhưng có lẽ xấu quá, nên xe chạy lâu, hai bên đường
ít khi gặp dân, cây cối tiêu điều xơ xác, lâu lâu mới gặp chiếc xe chạy ngược
chiều và đa số là xe Quân sự, cầu Dakla hai bên bờ sông cỏ mọc quá đầu người, tôi
có cảm giác nếu không có những cây lau sậy kia, thì con sông này nhìn cũng khá
thơ mộng. Xe vượt qua thị xã Kon Tum, và hướng về đập thủy điện Dăk uy đang
trong quá trình thi công…xe băng qua những cánh rừng cao su mà chị em vừa mới
trồng thẳng tắp, lên xanh mơn mởn. Chị em với những chiếc nón cối và những chiếc
khăn che gần hết khuôn mặt…giơ tay vẫy chào chúng tôi, kêu í ới, không hiểu là
kêu gì… xe vẫn chạy bon bon trên đường 14, lúc này quang cảnh hai bên đường còn
thê lương hơn, cây rừng trơ trọi, cụt ngọn, cháy đen. Tạo ra một khung cảnh quá
u sầu, của vùng đất chịu nhiều bom đạn trong chiến tranh, lòng chúng tôi chùng
xuống khi đi qua vùng đất này. Anh Trường ra lệnh cho chúng tôi lên đạn nòng, hướng
nòng súng ra hai bên đường, vì khu vực này FULRO thỉnh thoảng vẫn còn hoạt động.
Đến một ngả rẽ, xe chúng tôi tiến về Tân Cảnh với khung cảnh càng dữ tợn hơn.
Khoảng
4 giờ chiều, chúng tôi đến ngã tư Polei Kan. Rừng ở đây quá âm u và tĩnh mịch, vì
điều này mà F cho chúng tôi về đây để thực tập địa hình, nhìn trên bản đồ thì
thấy phát khiếp rồi, chúng tôi ở trong một doanh trại bộ đội của tỉnh Gia lai –
Kontum, xung quanh còn có các đơn vị bộ đội khác nữa, nhưng khi đến đây thấy cảnh
rừng núi như thế này, chúng tôi chẳng thiết đi đâu nữa cả.
Polei
Kan, Dak-to, Dak- sut, Diên Bình là những nơi chúng tôi thực địa trong vòng 6
ngày. Ngày cuối cùng chúng tôi được lệnh của Sư đoàn theo xe của đoàn 330 về
Chư Nghé, thuộc huyện Chư Pả cách Pleiku cũng hơn một giờ xe chạy, và có nhiệm
vụ áp tải cùng đoàn xe chở đạn pháo 105, 155 bổ sung cho mặt trận Đức Cơ.
Nghỉ tại
Chư Nghé hai ngày, chúng tôi theo xe về lại biên giới, khi ngang qua Đức Cơ vào
khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi nghỉ chân tại d1 e95, thì biết là hôm nay e95 đón
danh hiệu Anh hùng, anh em mời ở lại chung vui… nhưng vì theo xe chở pháo nên
không ở lại được. Thủ trưởng Hiệp, Chính trị viên phó d1e95, trực tiếp xuống
nhà bếp lấy cho anh em chúng tôi khoảng chục cân thịt bò, gói gọn và bỏ vào
cabin của xe, kèm theo hai chai rượu chuối.
Nhận xét
Đăng nhận xét