11. Phần 1: Biên giới Tây nam - Từ Đức Cơ đến Chùa Prết Vi Hia
Ngày
thứ ba, chúng tôi có một ngày để chuẩn bị quân tư trang, nghỉ ngơi lấy lại sức,
và cả bọn đều nghĩ rằng: cách hồi sức tốt nhất là qua giao lưu với chị em e746
đang trồng cao su ở khu vực này. Có lẽ không có gì dễ hơn việc bộ đội làm quen
với bộ đội. Chóng vánh nhưng mang rất nhiều màu sắc. Chúng tôi qua c3 e746, khi
chị em nhà mình đang làm cỏ cao su được vài tháng tuổi, những hàng cao su thẳng
tắp mơn mởn trong nắng trời Tây nguyên, màu xanh của sự sống đang phát triển, mặc
cho tiếng súng chỉ nổ cách đó chưa đầy 10km… “Đồng hương ơi! Đồng hương quê ở
đâu vậy? “hàng trăm câu hỏi như nhau, được phát ra từ những cái miệng nhỏ nhắn
ngọt ngào, mang âm hưởng nhẹ nhàng của xứ Huế, trọ trẹ khó nghe của Quảng Bình,
Đồng Hới.
“Đồng
hương ợ Huệ “chúng tôi đáp lại.
Những
tiếng cười thánh thót vang lên nghe xao xuyến cực kỳ.
Chúng
tôi ghé chơi và chị em cũng thân tình đón khách… ngồi ở dưới những gốc cây bằng
lăng to rợp mát…một thiên sử mở ra với không biết bao nhiêu chủ đề. Biết mục
đích của chúng tôi là đi kiếm rau về cải thiện, chị em không ngần ngại cho người
về trại, nhổ luôn một luống cải củ cho chúng tôi mang về. Với bao lời dặn dò tối
nay chị em sẽ sang chơi (chúng tôi không được ra khỏi doanh trại vào ban đêm, nhưng
chị em đến chơi thì được, và phải về lúc 9 giờ), không phải chỉ có c3 mà cả c2
cũng kéo qua doanh trại chúng tôi (tỉ lệ 1nam /3 nữ) đêm ấy chúng tôi chung vui
văn nghệ với nhau, và đến hơn 11 giờ đêm mới giải tán, khi nghe tiếng kẻng của
đơn vị gõ liên hồi báo động… là phải về. Tôi vốn không ưa ca hát, nên mời vài
chị em về lán uống nước trà, và còn mấy phong lương khô bỏ ra để đãi chị em… rồi
chia lẻ một lần nữa, ra trước lán, ngồi ở cái bàn ăn cơm để chuyện nhỏ chuyện
to, tôi có lợi thế là đã biết cô nàng từ hồi sáng, nên có những thuận lợi hơn
những anh em khác, đang trong thời kỳ quá độ của sự tiếp cận… E thẹn trong bước
đầu gặp gỡ đã mất, và giờ đây chỉ còn lại sự thân tình (limited), của những con
người cùng trang lứa, với những hoàn cảnh như nhau, nên rất dễ hòa đồng trong
phút chốc. Thước phim của mỗi cuộc đời được quay một cách chậm rãi trong lời kể
đầy cảm xúc…và hai cuộc đời ấy đã có hiện tượng đập cùng một nhịp lúc nào không
biết …
Chia
tay, chúng tôi tiễn chị em ra khỏi doanh trại, có anh còn hào phóng cho mượn
đèn pin để chị em đi về, rồi hẹn hò. Rồi hò hẹn. Ngày mai. Tối mai. Nhưng đâu
ai hiểu rằng đây là lần đầu, cũng là lần cuối gặp mặt nhau, vì sau hơn 15 ngày
huấn luyện chúng tôi đi thẳng từ Đắc Tô lên căn cứ Xa- Xb, lúc này là căn cứ hậu
cần và kỹ thuật của F và SCH Tiền phương Quân khu 5, chuẩn bị cho chiến dịch tổng
tấn công vào chiều ngày 22/12/1978.
Về lại
lán, tôi viết lá thư về thăm nhà, báo cho gia đình biết tôi vẫn khỏe và công
tác bình thường trong quân ngũ, cả mấy anh em cùng quê không ai nói gì về cuộc
chiến tranh đang xảy ra từng ngày trước mặt chúng tôi. Nhưng. “Chỉ tội cho em. Tình
yêu đầu tiên của em, đã bị ngăn cách vì không gian xa vời vợi, ngày gặp lại là
điều khó nói. Nơi quê nhà em vẫn vật lộn với những cánh đồng muối, của nhà anh
và cả của nhà em, ánh nắng chói chang của vùng biển Miền trung sẽ làm da em sậm
thêm, gió biển quê mình sẽ làm tóc em xỏa xuống, tung bay trong gió, lộ rõ
khuôn mặt buồn, man mác chờ một bóng hình ai…Không còn ai cùng em tát nước những
đêm trăng, không còn ai cào muối để em gánh lên nền.
Nơi hướng
tây, đồi núi điệp trùng, vẫn có một người luôn nghĩ về em, và luôn dành cho em
những hương vị ngọt ngào nhất của tình yêu đầu đời…
Giấc
ngủ đến lúc nào cắt đứt dòng miên man của anh. Cả tiếng súng nổ bên kia biên giới
anh cũng không còn nghe thấy. Chỉ nghe trong tiềm thức tiếng nói của em ngày
xưa và hình bóng cô thôn nữ dịu dàng, đang đi trên những con đường đồng muối
quê mình. “
ĐẮC
ĐOA ĐẤT LẠ MỘT MÙA CAU.
EM. MỘT
CÔNG NHÂN NƠI NÔNG TRƯỜNG.
ANH. MỘT
QUÂN NHÂN ÁO BẠC MÀU.
Ra đi
từ Đức Cơ lúc 3 giờ sáng, chưa kịp giã từ với chị em e746, những đồng đội tốt bụng,
xinh xắn và dễ thương, chúng tôi lại ra đi với bao nỗi luyến tiếc. (đừng ai hỏi
luyến tiếc cái gì nhé, hãy để nó sống trong lòng của anh em trinh sát 307chúng
tôi), xe chạy trên những nẻo đường, mà cách đây một tháng chúng tôi vừa đi qua,
không ai nói với ai lời nào, tất cả đang lắng đọng nhiều suy tư. Xe đến thị xã
Pleiku vừa tờ mờ sáng, những quán cà phê sớm đã mở cửa, ghé vào làm ly cà phê …
thật thú vị với hương vị tây nguyên, buổi sáng tinh mơ… trời se se lạnh…Cô chủ
quán dù đã lớn tuổi nhưng còn rất nét hỏi chúng tôi “Các anh ở biên giới Đức Cơ
về hả? “chúng tôi xác nhận, và cô buông ra một tiếng thở dài. Chiến tranh ghê
quá!
Chúng
tôi về đến nông trường Đắc Đoa khoảng gần 8 giờ, nông trường đang bận rộn làm
việc, chị em hầu hết dân Hải Hưng nhập ngũ năm 1976, 1977 và có một số là lính
1978 (gọi là nghĩa vụ lao động), khi xe vào khu vực của nông trường, hai bên đường
chị em vẫy tay rối rít, tiếng gọi nhau í ới (chẳng biết gọi gì?), xe dừng trước
nông trường bộ, một nông trường tương đối qui mô với đầy đủ máy móc thiết bị…
Sau
khi trình giấy giới thiệu của Quân khu, chúng tôi được bố trí vào ở một dãy nhà
tranh 3 gian kiểu lính, gần bệnh xá của nông trường. Ổn định xong chúng tôi kéo
quân đi tắm, vì dọc đường bụi mù của đường 19 phủ lên chúng tôi một màu đỏ của
Tây nguyên, khi đi qua những dãy nhà của bệnh xá, chị em nằm trong đó thò đầu
qua khung cửa sổ trêu chúng tôi. Tắm xong chúng tôi về phòng và diện bộ cánh nhất
vòng quanh nông trường bộ, phải công nhận chị em làm công tác phục vụ của nông
trường đông thật, ghé vào các khu vực làm việc của chị em, chúng tôi được đón
tiếp rất niềm nở và thân tình.
Bữa
cơm trưa, chúng tôi ăn chung với nông trường trong nhà ăn, và sự xuất hiện của
chúng tôi cũng tạo ra những điều khá thú vị, qui định của nhà ăn là không nói
chuyện nhưng hôm nay hình như chị em không thể nhịn được, vẫn cười nói vui vẻ
bình thường. Tôi bê chén cơm của mình qua mâm bên cạnh, nhìn phù hiệu tôi biết
chị em của ban Quân y, tiếng cười nói chọc ghẹo vẫn giòn tan như pháo nổ…
Nhận xét
Đăng nhận xét