106. BIÊN GIỚI TÂY NAM - Trung sỹ
Tôi
nghĩ ra một câu chuyện về tình bạn giữa một anh lính Việt và một thanh niên Campuchia.
Anh lính Việt tìm thấy và cứu anh bạn K này gần chết đói trong khi đánh địch ở
Biển Hồ. Anh bạn K đi lính Hun Xen vì có mối thù riêng với Angka đã bức giết cô
gái người yêu của anh ấy. Bối cảnh hai người bạn gặp nhau tại nhà một ông già
làm thốt nốt và thuộc nhiều câu chuyện cổ về ma cọp. Cổ tích huyền thoại và hiện
tại đan cài trong vị chua đắng của nước thốt nốt chua cùng xâu cá khô. Kết luận:
Angka và ma cọp tàn ác chẳng khác gì nhau, phải chung sức đánh đuổi nó. Sáng
hôm sau, đơn vị của hai anh cùng lên biên giới. Đại khái thế!
Đặt
xong tên đứa con tinh thần của mình là “Men thốt nốt”, tôi lại nộp cho cụ Sắc. Đọc
xong, cụ khoái trá ra mặt, sửa chữa chút ít rồi lôi truyện ngắn của tôi ra đọc
rút kinh nghiệm trước toàn trại viết vì lúc đó, các anh ấy chưa kịp đẻ xong. Hè
hè! Bác Duy Khán bảo: “Thường! Thường thôi!”. Anh Khanh khen: “Có không khí lắm…!”.
Các anh khác không nói gì.
Anh
Dân đang viết dở truyện của anh ấy, phải quay sang đánh máy cho tôi vì cả trại
chỉ có một cái máy chữ duy nhất và anh ấy biết đánh máy. Khi gõ xong câu chuyện,
ở phần tên tác giả, anh Dân cười hô hố rồi gõ: Đại văn hào phố Phùng. Nhà tôi ở
Hà Nội lúc đó đã chuyển từ Hàng Khoai về Phùng Hưng, không ở cùng ông bà ngoại nữa.
Nhà mới cách cơ quan các cụ bên phố Lý Nam Đế cái cầu đá dẫn xe lửa lên cầu Long
Biên thôi. Cùng dân Hà Nội, lại thấy tôi bằng tuổi con mình mà dấn thân chiến trường
ác liệt quá nên các cụ thương lắm. Các bác kể chuyện Hà Nội, còn tôi kể lại những
chuyện linh tinh bá láp của đời lính.
Nhà cụ
Sắc ở làng Hoàng Mai. Cứ mỗi sáng Chủ nhật, nghe tiếng flute dặt dìu say đắm thổi
bài “Khát vọng” trong chương trình Văn nghệ, cụ lại nháy mắt hãnh diện: “Đấy!
Nó chơi đấy!”. Nó ở đây là anh Dương (tôi không dám chắc tên lắm, nhớ mang máng
thế), con trai cụ và cũng bằng tuổi tôi.
Phòng
Chính trị Quân đoàn cho trại viết hai con heo. Các cây bút cự phách không ai biết
làm thịt. Được giao việc, tôi sang vệ binh nhờ anh em sang chọc tiết, cạo lông
có ăn chia tỷ lệ. Một loáng, hai con heo đã phanh bụng móc hàm trắng hếu. Anh
Khanh ca cẩm: “Ăn thế chó nào hết được?”. ”Thì bán bớt đi!”. ”Thế mày đi bán
đi!”. Tôi gọi xe lôi, chất một con heo lên xe chạy thẳng ra chợ Olympic.
Xe dừng,
cánh lái thịt ào đến ngay. Không nhớ là đã thu bao nhiêu tiền nhưng tôi bán đứt
con heo chỉ trong vòng 15 phút. Trở về, tôi đưa tiền cho anh Khanh sau khi đã
trích lại khoản cà phê tối tự thưởng. Bữa cơm chiều, xoay trần làm đủ các món
heo cho mâm bốn người. Đến lúc ăn, anh Khanh lôi ra một chai rượu với bốn cái
ly hạt mít. Cụ Sắc lại hỏi: “Có biết uống không? ”Dạ! Kh…ô…ông… ạ!”. “Thế thì tốt!
Nhưng hôm nay vui thì cũng làm vài chén đi!”. ”Vâ â…ng…ạ!”. Chết cười sặc! Tôi
nhấm nháp chút chít ba ly cho các cụ vui lòng… Rửa chén bát xong, tôi xin phép
chuồn ra phố.
Lang
thang từ đài phát thanh ra đến Cầu Sập phải hơn 1. 5 km đi bộ. Trên cầu, hàng
nhậu đêm, hàng nước giải khát đốt đèn trứng vịt lốm đốm. Tôi gọi một chai 75, vài
con khô nướng rồi ngồi kê dép thõng chân ngay đoạn đứt cây cầu, cảm nhận tận
cùng cái hụt hơi của cao độ xuống lòng sông.
Tonle
Sáp dưới chân bóng sáng mờ xuôi chảy. Độc ẩm nhưng sao rượu vào thế này! Ờ! Thì
tao uống với mày, uống với dòng sông đêm mà hơn ba năm trước, tiểu đoàn tao đã
ngược lên đánh trận Ô Đông. Hơi rượu vào quá! Gió thổi mạnh quá! Hồn tử sỹ gió
ù ù thổi… Anh em tao đấy, anh em tao đang về theo gió đấy! Anh em tao đã hy
sinh khối. Còn mày chắc cũng thương tích đầy mình! Nhất là cái trận bọn giang hạm
nó giã cối 81. Trúng địch thì ít mà trúng mày thì nhiều. Cá chết trắng cả! Thôi
đổ xuống chén rượu đền mày đây! Còn xa tít bên cầu, phía những đám mây vần vụ, chớp
biển đang nhằng nhịt kia là quê cha quê mẹ tao! Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì
mưa mày có biết không?
Nhận xét
Đăng nhận xét