185. Sư đoàn 341- đoàn Bộ Binh SÔNG LAM - Biên giới Tây Nam
Chúng
tôi lên tầu. Khoảng 9h30 tối thì tầu chuyển bánh. Không ai có thể tả được cảnh
vui, niềm vui của những người lính được đi phép. Với tôi từ ngày đi bộ đội, đây
là lần đi phép thứ hai (không tính lần về tranh thủ dịp Tết năm 78). Lần thứ nhất
tôi được đi phép là vào khoảng tháng 3/76 tức là sau cuộc chiến giải miền Nam
là 10 tháng. Lần này là lần thứ 2, cũng sau giải phóng Phnompenh khoảng 10
tháng, một sự trùng lặp ngày tháng như có sự sắp đặt.
Chính
vì vậy, đây là lần được đi phép từ chiến trường làm nhiệm vụ Quốc Tế tại CPC. Nên
ngoài sự vui mừng, nó còn pha lẫn chút niềm tự hào. Cảm giác trong người lúc
nào cũng như là đang vang lên khúc khải hoàn ca của người chiến thắng.
Tàu chạy, phải 30 phút sau thì trong toa mới đỡ
lộn xộn. Tầu đã tăng tốc độ, tiếng xình xình, xình xình của bách tầu với những
khớp nối đã thật dầy. Đoàn tầu xé gió băng băng trong trời đêm.
Tuy vậy
nhưng thời đó, tầu Bắc - Nam chưa nhanh như bây giờ. Thường là từ Sài Gòn ra Hà
Nội phải chạy, phải nghỉ, phải đi trong khoảng hai ngày ba đêm. Hay ngược lại
là ba đêm hai ngày. Thời kỳ đó, đi được tàu Bắc - Nam đã là thuộc diện lý tưởng,
nhanh nhất, an toàn nhất rồi. Máy bay hồi đó cũng có, nhưng thường chỉ giành
cho Cán bộ đi công tác. Còn dân và bộ đội được đi tầu là cao cấp. Thời đó còn một
loại phương tiện nữa chuyên chở người ra vào Bắc- Nam. Ngoài ô tô- tầu hỏa, máy
bay, còn có một con tầu biển mang tên tầu Thống Nhất. Cứ mấy ngày một chuyến, chạy
từ cảng Bạch Đằng- Sài Gòn ra cảng Hải Phòng.
Năm
1976, lúc tôi chuẩn bị về phép thì Mẹ tôi vào Sài Gòn. Thế rồi tôi không đi
theo đường xe Binh trạm nữa. Mà hai mẹ con tôi đi tôi đi tầu biển từ ra Hải
Phòng. Gía vé tầu biển lúc đó thật đắt. Nhưng bù lại Mẹ con tôi có một chuyến
đi thật ý nghĩa.
Đây là
chuyến đi Bắc- Nam bằng đường sắt đầu tiên đối với tôi và hầu như tất cả mọi
người. Nến đã có biết bao hứng thú. Tàu đi qua các ga, dọc các vùng miền của đất
nước. Có những cánh rừng, có những làng quê, ven những bãi biển, những hầm núi
quanh co đẹp mê hồn. Được gặp, được biết những người dân có chất giọng những
vùng miền khác nhau. Những đặc sản trái cây, thực phẩm đặc trưng của từng vùng
quê. Mà trong các sách vở lưu truyền ca ngợi. Tàu chạy, khi thì qua ga toàn bán
những trái cây như trứng gà, hồng xiêm, nơi thì bán toàn cau tươi. Những buồng
cau to, quả đẹp, lính ta mua treo đầy lên tầu, mang về làm quà. Có người thì
mua tới hai ba buồng về để làm cau hỏi vợ, cưới vợ. Nơi thì bán nhiều cá mực
khô, nem chua, kẹo mè xửng Huế. Có ga gọi là ga “Gà”, họ bán gà nguyên con đã
luộc vàng ươm trông thật hấp dẫn. Gà thật nhiều mà rẻ vô cùng. Lính ta cứ một
người một con, hoặc hai người một xếp đầy cái bàn nhỏ giữa hai hàng ghế. Cùng với
mấy chai rượu là ai nấy xé gà, nhồm nhoàm nhai, mời chào nhau ầm ĩ.
Tầu
qua khu vực Vĩ tuyến 17, khu vực Vinh Linh. Nơi chúng tôi đã từng có mấy năm
luyện quân, chiến đấu bảo vệ nơi tuyến đầu Miền Bắc. Từ đây trở ra khung cảnh
khác hẳn. Nếp sống khác hẳn từ Vĩ tuyến 17 trở vào. Cái nghèo, cái khó của Miền
Bắc với những căn nhà lá như những cái chòi nhỏ của dân. Ruộng nương sắn khoai
cằn cỗi, cây trái còi cọc. Nhìn người bán mua gầy còm, quần áo vẫn còn vá chằng
vá đụp mà thấy nao lòng. Hàng hóa vẫn chỉ là lèo tèo, dóng mía, củ khoai, bắp
ngô. Những người bán hàng hầu như toàn là người già, em nhỏ trông thật tội nghiệp.
Thế rồi sau hai ngày ba đêm, đoàn chúng tôi cũng về được tới ga Nam Định và có
xe ô tô của Binh trạm của Tỉnh đón về Thái Bình. Con phà tại bến Tân Đệ đã đưa
chúng tôi qua song Hồng. Đây là đất Thái Bình.
Từ đây
về nhà tôi còn 14km. Chúng tôi, những người con của đất lúa, đã đang chiến đấu,
đang làm nhiệm vụ Quân tình nguyện tại nước bạn CPC. Được về thăm quê hương, thăm
gia đình. Được sống trong vòng tay ấm áp của quê hương, của từng gia đình, từng
người thân yêu, với niềm vui vô tận.
Thật không có gì tả được hết niềm vui to lớn
ngày hội ngộ của người lính từ chiến trường trở về. Của những người Cha, người
Mẹ, anh em bà con hàng xóm được đón người con, người thân từ cuộc chiến Biên giới
chống bè lũ Pôn Pốt IêngXaRi vẫn đang diễn ra ngày càng khốc liệt.
Trong
khu phố, có rất nhiều thanh niên đi bộ đội những đợt 76-77-78 đã rất nhanh có
tin dữ người này bị thương, người kia hy sinh hoặc mất tích tại đất CPC loan
truyền về địa phương. Với tôi một người người con của khu phố đã tham gia qua
hai cuộc chiến, được trở về thăm gia đình với hình hài nguyên vẹn. Thì niềm vui
chung đó còn được tăng lên gấp bội. Cô em gái út, kém tôi 10 tuổi đang học cấp
3 khi đi học về cùng với tốp bạn, thấy tôi ngoài cửa, đã reo ầm lên: A! Anh Phú.
A! Anh Phú! Rồi ôm chặt tôi, nhẩy lên lưng tôi. Bắt tôi cõng từ ngoài sân vào
nhà. Thật tình cảm và cũng thật vui nhộn.
Bà con
phố xóm đến mừng, chúc tụng rồi hỏi thăm tình hình chiến sự ở CPC. Rồi hỏi có
biết người nọ, người kia thế này, thế khác. Rồi chính họ lại kể cho tôi nghe
tình hình chiến sự, những trận chiến đấu ở bên đó y như là họ chính họ là người
trong cuộc. Rồi kể thêm có con ông nọ, con bà kia đánh nhau, hy sinh bị thương,
mất tích. Rồi to nhỏ thằng nọ, thằng kia lấy được nhiều vàng v. v. Có người hỏi
tôi một cách thô thiển là: “Có kiếm được tý nào không?” Mà sao người gầy ốm thế?
Rồi khi đã kết thúc câu chuyện không đầu, không đuôi đó, họ tò mò giục tôi lấy
vợ đi thôi, vì đã nhiều tuổi rồi. Họ giới thiệu cô nọ, cô kia làm như là chuyện
lấy vợ đơn giản dễ như là thò tay vào túi quần lấy cái kẹo không bằng. Tôi vẫn
phải ậm ừ cho qua trước nhiệt tình của mọi người.
Nhận xét
Đăng nhận xét