7. ĐỜI QUÂN NGŨ - hồi ký của CCB Đức Cường - F320
NỖI ĐAU NƠI XÓM VẮNG
Sáng sớm dậy cả bốn cùng bàn để có quyết định nhọc nhằn này. Tư và Thịnh ý kiến phải đưa thằng bé đi theo vì để lại nó sẽ chết. Nhưng tổ trưởng đã quyết định để lại bởi đường đi còn dài gặp địch cơ động sẽ khó khăn. Chúng tôi bớt khẩu phần ăn mỗi người 1 ngày để lại cho thằng bé, cả cho nó uống thuốc cảm với hi vọng ngày quay trở lại nó còn sống sẽ đưa nó về đơn vị. (Lính trinh sát trên dây lưng chiến đấu khi nào cũng có dao găm, bi đông nước, túi bao đạn, túi thuốc cá nhân. Còn lưng đeo gùi vải đựng quần áo, tăng võng, LTTP). Trao “tiêu chuẩn” cho thằng bé chúng tôi không quên múc cho nó vò nước để cạnh thầm nhủ rằng: “chỉ cần em sống đến ngày các anh trở về thì cuộc sống sẽ dang tay đón em”.
Trước lúc chia tay chúng tôi muốn nói với em nhiều lắm
song ngôn ngữ bất đồng đành nhìn em yên lặng. Chúng tôi vẫy tay chào, nhìn thấy
ánh mắt em đượm buồn nhưng vẫn ánh ngời niềm hi vọng. Em đâu biết được rằng cái
chết đang chờ em phía trước. Tôi thấy trong mắt thằng đồng hương đa cảm, nước mắt
đã lăn dài trên má. Đi đã được vài chục bước như sực nhớ gì đó Tư chạy quay trở
lại hình như dấu chúng tôi cho nó thêm phong lương khô.
Đến chốt cuối cùng của ta chúng tôi hiệp đồng
thời gian quay trở lại để tránh bắn nhầm. Các đ/c BB nói rằng hãy cẩn thận vì
cách đây 2 ngày địch đánh vào chỗ này. Đúng 4 ngày sau hoàn thành nhiệm vụ
chúng tôi quay trở lại. Đến gần bản Vuông đi càng nhanh, Tư lúc nào cũng đi trước,
những ngày thực hiện nhiệm vụ chúng tôi lúc nào cũng nhắc về em. Tư nói đi nói
lại mấy lần: “Thương nó quá, nó bằng tuổi em út mình”! Kia rồi, em vẫn nằm kia. Chúng tôi ùa chạy lại.
Trời ơi thằng bé đã cứng lạnh rồi, trong tay vẫn còn cầm miếng lương khô ăn dở.
Mắt vẫn mở như đang trông chờ chúng tôi trở về. Chúng tôi vuốt mắt cho em khá
lâu mới được chứng tỏ em chết chưa lâu, tuy vậy ruồi nhặng đã bay đậu như đàn
ong. Chúng tôi nhanh chóng mai táng em ngay vườn nhà rồi để quần áo, dép của nó
ngay trên mộ với hi vọng sau này bố mẹ nó còn nhận ra được, vừa đào, rồi lấp mà
tất cả chúng tôi mắt đều ứa lệ.
Xong
việc chúng tôi cắt đường về đơn vị, không ai nói câu nào mà đều tự thấy lòng
mình nặng trĩu. Hãy tha thứ cho các anh, các anh đã về muộn vì sự hoàn thành
nhiệm vụ, vì cứu cả đất nước hồi sinh nên đành lòng bỏ em lại để rồi lương tâm
bứt rứt cho đến bây giờ.
Cuối tháng 7/1979 chúng tôi ra Bắc đóng quân ở
Đại Từ - Thái Nguyên. Vào dịp chào mừng ngày thành lập Quân đội 22/ 12 năm đó, bởi
chữ đẹp tôi được chi đoàn C20 TS F320A chọn vào ban biên tập báo tường. Đó là số
báo đầu tiên khi trở về đất Bắc chuyên đề chào mừng ngày thành lập quân đội. Đa
số bài đều viết về kỷ niệm chiến tranh song có 1 bài thơ làm nhức nhối tim tôi.
Đó là bài thơ “Qua xóm vắng” của tác giả Ngô Thanh Tư với dòng ghi chú: “Kỷ niệm
chuyến công tác qua bản Vuông”. Tôi đọc đi đọc lại mà nước mắt dâng trào tự
trách mình vô cảm, thằng Tư ít nói mà trái tim giàu đến vậy. Tôi không thể sửa
một ngôn ngữ nào bởi nghĩ rằng hãy để yên cho trái tim đồng đội rung động, hãy
để cho dòng nước mắt tự chảy. Trong bài thơ này có cả trăn trở của tôi, của Thịnh,
của anh Duyên và sẽ như bao người lính tình nguyện VN trong hoàn cảnh đó.
Cho đến
bây giờ đã 34 năm trôi qua. Quãng thời gian không ngắn trong đời mỗi con người,
tôi còn nhớ 8 câu thơ mở đầu bài “qua xóm vắng”:
Trên đường công tác anh gặp em
Bản hoang nhà vắng cảnh điêu tàn
Mình em bơ vơ nơi xóm nhỏ
Ổ rơm ai lót đặt em nằm
Em nhỏ mới lên độ 9 - 10
Có biết gì đâu lứa tuổi chơi
Đã mấy ngày nay em sống vậy
Không gạo không tiền không mẹ cha
..................
Và 4
câu cuối:
Chiến tranh lửa khói ngợp trời mây
Tràn đến bản em miền quê vắng
Anh khắc mãi một lời tâm niệm
Em là nạn nhân của chiến tranh
Nhận xét
Đăng nhận xét