15. ĐỜI QUÂN NGŨ - hồi ký của CCB Đức Cường - F320
Ngày
7/1/1979:
Lúc
này sư đoàn bộ đã di chuyển lên sát cầu sắt (cầu khmung) cuối phum bekrâp. Ở gần
đường 7 nên chúng tôi thấy các đ/v sư 10, sư 31 và một số đ/v của quân khu 7
hành quân cơ giới xe pháo nối đuôi nhau trông thật khí thế hào hùng. Các đ/v
hành quân bộ có lẽ của quân khu 7 bởi quân “triều đình” tiến đến đâu bàn giao địa
bàn cho quân địa phương đến đó. Hồi ấy các đ/v lính chiến đấu quân đoàn 3 ai
cũng may một miếng vải trắng hoặc vàng ở vai trái để nhận ra nhau nhất là để
hành quân đêm nên cũng dễ nhận biết. Tiếng súng chiến trận chỉ sau một ngày
nghe đã ở khá xa chứng tỏ tốc độ tiến công rất thuận lợi.
Khoảng đầu giờ chiều tôi nghe tiếng súng bắn
loạn xị quanh mình tôi hỏi chính tri viên đạị đội thì mới biết ta đã giải phong
tp nongphenh. Hứng chí tôi cũng xả một tràng ak dài cán bộ đứng bên cạch mà chẳng
nói gì. Có lẽ ai cũng hân hoan đều nghĩ rằng ngày trở về quê mẹ vn sẽ không còn
xa nữa và sống là chắc rồi. Trong ngày lính ta gặp nhau dù quen hay lạ đều truyền
tin chiến thắng mọi người túm ba túm bảy cũng vậy, có lẽ có anh đã vạch cả cho
mình cả tương lai với bao tràn trề hy vọng mà không thể biết rằng cuộc chiến
sau đó còn kéo dài 10 năm nữa.
Đại đội tôi ở khá gần hầm tư lệnh sư đoàn (hồi
đó cấp sư đoàn vẫn gọi giống cấp qđ, qk như bây giờ) căn hầm có mái bằng rộng
25-30 mét vuông được phủ đất dày tránh đạn pháo. Các cột trụ gỗ dâng cao lên khỏi
mặt đất chừng 1/2 mét để có ánh sáng khi hội họp và trỏ thành công sự chiến đấu
kiên cố khi bị địch tiến công. Ngày đêm đều có c23 vệ binh canh gác. Anh em vệ
binh và chúng tôi thường hay đi theo thủ trưởng nên quen biết nhau cả. Bởi vậy
khi ra bắc thái có lần đi chơi đêm quá giờ bị vệ binh bắt cũng cười xuề thôi. Họ
ở ngoài rìa làng (phum) khi thay phiên canh gác phải đi qua chỗ tôi nằm nên có
chuyện gì cũng kể hết, kể cả chuyện tư lệnh giận nhau người ăn trước người ăn
sau chứ không ăn cùng mâm. Nghe đ/c vệ binh nói ở đó đang giam giữ mấy thằng tù
binh nên chúng tôi cũng muốn nhìn rõ địch thủ hơn, kéo nhau ra xem thì lại
thương chúng nó, người thì nhỏ yếu bị trói chân ở trong cũi (có lẽ công binh
đóng cũi) có thằng đang khóc có thằng chắc chỉ mới 15-16 tuổi non toẹt.
Chập tối chúng tôi nghe loa hát tiếng K inh ỏi,
hỏi mấy đồng hương vệ binh mới biết trong phum bekrap có đám cưới. Tối hôm đó
tôi cùng mấy anh bạn ra xem để tìm hiểu phong tục họ ra sao. Tới nơi thì thấy bộ
đội ta đến xem khá đông. Đây là đêm vui trước ngày cưới họ múa lăm thôn chứ
không ngồi bàn trà lá như bên ta. Tôi thấy điệu múa lăm thôn rất giống điệu múa
của đồng bào tây nguyên. Một bó củi to chụm lại đốt cháy rực mọi người không
phân biệt lứa tuổi đều múa theo tiếng nhạc đi vòng tròn quanh đống củi cháy đỏ
rực. Nhạc cụ tự chế rất đơn giản chỉ có một dây néo theo một cái cọc thẳng đứng
đế là một cái can sắt. Âm điệu chỉ có 2 tiếng bập, bùng. Dùng mấy đầu ngón tay
kéo dây tay kia cầm cọc gỗ kết hợp chân giẫm lên cái can sắt tạo nên tiếng “bập”
còn tiếng “bùng” thì chỉ kéo dây rồi thả. Họ cầm tay kéo bộ đội ta vào múa song
chúng tôi đều ngại ngùng vì không biết múa nhưng cuối buổi thì cũng có mấy chiến
sỹ bạo dạn vào múa rất dẻo được nhân dân đồng tình hoan ngênh. Sau này khi đ/v
về chiến đấu ở ta keo vô tình tôi được đọc một bài báo (báo binh đoàn tây
nguyên) viết về đám cưới này tiêu đề bài viết là “đám cưới đầu tiên sau ngày giải
phóng” trong số này có cả một bài thơ của đ/c lê đức thọ viết về nỗi đau khi
đ/c thiếu tướng tư lệnh Kim Tuấn hy sinh.
Đêm nghủ đầu tiên sau ngày giải phóng thật
đáng nhớ, nằm trong một lùm cây cạnh cầu khmung. Chúng tôi vẫn chưa được lệnh cỏ
động bởi quân sang sông cả ngày lẫn đêm mà vẫn ùn tắc. Phà công binh mỗi lần chỉ
chở được 2 oto và khoảng một đại đội. Sông mê công ở đây rất rộng nên một chuyến
phà cần phải có thời gian mà ta chỉ có duy nhất một phà. Trên chiến trường như
các đồng đội biết đấy trục đường 7 này là toàn bộ đội hình qđ3 và f302 phải đều
vượt sông càng sớm càng tốt để chặn đánh thu hồi VKTB của địch giảm gánh nặng
cho cuộc chiến sau này.
Chưa có lệnh cơ động nhưng chúng tôi biết rằng
sẽ phải hành quân rất sớm bởi 2/3 sư đoàn đã ở bên kia sông đang chờ...
Nhận xét
Đăng nhận xét