81. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên
Nơi
đây thực sự là một địa hình bất lợi cho ta, bởi vì cánh đồng rộng mênh mông và
hết sức trống trải. Cánh đồng này được mệnh danh là cánh đồng “chó ngáp” bởi nó
rất rộng, bà con địa phương ví nó rộng đến nỗi chó chạy mệt nhoài nên phải “ngáp
ngáp”. Bộ đội hành quân cực kỳ vất vả, đi liên tục không được nghỉ để kịp vượt
cánh đồng trước khi trời sáng. Cả cánh đồng ngập toàn nước lâu lâu gặp được một
ụ mối hay gò đất bằng cái chiếu trồi lên khỏi mặt nước nhưng chẳng ai dám “bén
mảng” tới (kiến lửa, kiến mối, có khi có cả rắn, rết vì xung quanh nước đã ngập
hết nên chỗ này là nhà trú ẩn của chúng). Nhiều đ/c mệt quá, liều mạng “sà” vào
đã bị kiến đeo cắn sưng hết mình mẩy.
4h sáng ngày 3/10/1973 đội hình
hành quân đã tấp vào được một số đám Tràm (không thể gọi là rừng vì chúng không
liên hoàn, mỗi đám Tràm cũng chỉ rộng từ 4 -5 hecta có khi cách nhau hàng mấy
chục mét).
Đội hình đóng quân của Trung đoàn thành 3 cụm liên hoàn:
Trung
đoàn bộ (sở chỉ huy tiền phương) và ba cơ quan(tham mưu, chính trị, hậu cần
(cũng rất gọn nhẹ) cùng các đơn vị trực thuộc C16, C17, C18, C21, C25):Thành 1
cụm.
Tiểu đoàn 1 cách sở chỉ huy tiền
phương của trung đoàn khoảng hơn 1 km về hướng đông.
Tiểu đoàn 3 nằm sát nách sở chỉ huy
tiền phương về hướng tây.
Khu vực này lúc đó có tên gọi là ấp
Đá Biên, xã Thạnh Phước huyện Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường (và bây giờ là ấp Đá
Biên xã Thạnh Phước huyện Thạnh Hóa tỉnh Long An). Đây là một địa danh nằm
trong vùng Đồng Tháp Mười có đường chim bay về phía biên giới CPC khoảng hơn chục
km và cách thị xã Mộc Hóa (căn cứ Tiền phương của sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn)
khoảng 20 km. Cách sông Vàm Cỏ Tây khoảng 7km. Một vùng đất lúc đó thật hoang
vu lâu lâu mới bắt gặp một vài nhà dân, làm lán trại rất tạm bợ để trông coi những
đám tràm và sống bằng nghề giăng câu, đặt lợp, đến mùa thì đi mót lúa trời (một loại lúa mùa tự mọc
từ những gốc rạ của các vụ năm trước).
Bởi quá mệt mỏi, gần như đã kiệt sức
qua một đêm hành quân, lội nước: “Bụng đói, gối mỏi, chân chồn…”, nên khi được
lệnh dừng chân bộ đội ta tưởng chừng như vớ được “vị cứu tinh” vội vàng sà ngay
vào những đám tràm, vắt ba lô, súng đạn lên cành cây, giăng võng để ngã lưng.
Dưới lưng võng của bộ đội ta chỉ
cách vài tấc toàn nước là nước nên các chiến sĩ nuôi quân “khỏe re” vì chẳng thể
nào nấu nướng gì được, và bộ đội ta phải nhai lương khô, gạo rang, hoặc ăn gạo
sấy (một loại gạo trong bịch nilon nếu đổ nước sôi vào thì 5 phút thành cơm
nóng, còn nước lạnh thì phải 30 phút thành cơm nguội ăn lạt thếch). Mà ở giữa
vùng sóng nước như thế này thì cũng chả đào đâu ra được nước sôi.
Dù vậy, các chiến sĩ ta cũng chẳng
thèm quan tâm đến “cái bụng” lúc này đã trống rỗng vì đã qua hơn chục tiếng đồng
hồ chưa có cái gì bổ sung cho nó. Vừa đặt lưng lên võng là các chiến sĩ ta đã
“thiếp” đi ngay. Cả một khu rừng Tràm non mênh mông yên ả đến lạ kỳ.
Những chiếc võng được giăng ngay
trên hai thân Tràm yếu ớt nhè nhẹ đung đưa. Những khuôn mặt còn búng ra sữa
nhưng đã hốc hác, nhợt nhạt chìm vào trong giấc ngủ ngon lành, gợi nhớ lại lúc
còn nhỏ cũng được nằm trên những chiếc võng đan bằng sợi gai, lỗ to bằng bàn
tay, được mẹ ru qua những trưa hè. Đây chính là những sinh viên của trường Đại
học Xây dựng Hà Nội còn đang ngồi trên ghế nhà trường, xếp bút nghiên theo tiếng
gọi non sông vượt Trường Sơn vào chiến trường Miền Nam chiến đấu để giải phóng
đồng bào.
Trong buổi sáng sớm yên ả dưới những
vạt Tràm thưa thớt ấy, chẳng ai có thể ngờ được lại là buổi sáng cuối cùng của
những chàng trai trẻ của trung đoàn. Chẳng ai có thể ngờ được rằng đội hình
hành quân đã bị lộ.
Nhận xét
Đăng nhận xét