73. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên
Đến cuối
tháng 3/1973, lúc này bọn sư đoàn 9 + sư đoàn 7 ngụy đã bắt đầu “giở trò”, chúng
chia quân làm nhiều mũi lấn chiếm vùng ta kiểm soát tại khu vực Thường Phước.
Tiểu đoàn 2 - E207 lại được lệnh hành quân chặn đánh địch và cuộc giao tranh ác
liệt đã xảy ra tại cầu ván Mương Kênh.
Trung
đoàn 15 sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn có xe bọc thép, pháo binh và máy bay yểm trợ
đã hùng hổ tiến vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 2, cả tiểu đoàn đã anh dũng chiến đấu đánh lui nhiều đợt tấn
công của địch. Với quân số đông hơn nên bọn lính sư 9 rất liều lĩnh. Một tốp
lính mấy chục tên đã bí mật bò gần sát hầm trận địa ta chỉ còn cách độ hơn chục
mét. Chúng điên cuồng dùng lựu dạn ném vào trận địa. Một quả lựu đạn đã rơi
trúng hầm của đ/c Thi và 1 chiến sĩ tên là Hùng (lựu đạn rơi sát chân Hùng). Ở
đầu hầm bên kia (loại hầm chữ Z) Đ/c Thi vội hét lên “Bốc ném lựu đạn ra ngoài”
Đ/C Hùng đã kịp chụp quả lựu đạn đã nóng bỏng ném lên khỏi miệng hầm thì lựu đạn
nổ tung (Thi và Hùng cách cái chết chỉ còn trong gang tấc). Hiện nay Hùng đang
sinh sống tại Mỹ Tho. Thi và Hùng ngày 27/7/2012 gặp nhau tại Đá Biên (Hai người
ôm nhau, nước mắt lưng tròng). Chúng tôi cũng không ai cầm được nước mắt chứng
kiến “Hai đồng đội tưởng như không thể nào còn sống…”của trận đánh ác liệt và
giây phút hiểm nguy…
Sau
khi “thoát chết” Thi và Hùng cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu. Chính trị viên
Phan Xuân Thi đã dũng cảm sử dụng khẩu B40 của đồng đội bắn cháy 1 xe bọc thép
M113. Tám tên giặc trong xe đều bị cháy
đen thui. Đạn trong chiếc xe này nổ liên tục trong 3 tiếng đồng hồ mới dứt, khiến
bọn giặc không dám liều lĩnh tấn công nữa. Qua trận đánh này đ/c Thi được đề
nghị tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng 2.
Chiến
tranh dẫu có khắc nghiệt biết bao nhưng cuộc sống vẫn có tiếng nói riêng của
nó. Giữa bom đạn bời bời, những trai tài gái sắc của nước Việt Nam vẫn yêu nhau
và cùng nhau xây tổ ấm trong lửa đạn quân thù. Một câu chuyện về tình yêu như
thế đã xuất hiện ở Trung đoàn 207 TRUNG DŨNG KIÊN CƯỜNG. Trong cuộc họp chi bộ
ngày 05/4/1973 của đại đội thông tin do tôi làm bí thư chủ trì sau gần 4h bàn bạc,
công việc của đơn vị đã xong, thì đ/c Năm Thắng đại đội trưởng kiêm phó bí thư
chi bộ bất ngờ có ý kiến và kèm theo một đơn xin cưới vợ.
Người
bạn đời đ/c định kết hôn là cô Út Dúng em ruột của chị Năm Phượng (còn có tên
là Năm Nết). Chồng chị Năm Phượng là anh Ba Hẩm thủ trưởng cũ của đ/c Năm Thắng
đã hi sinh để lại một đứa con khoảng 5 tuổi tên là Thắng Lợi. Khi anh Ba Hẩm
còn sống đã có ý định mai mối giới thiệu em vợ cho người đồng đội “thân tín” của
mình. Xin kể sơ qua về mới liên hệ họ hàng của cô Út Dúng, cô dâu tương lai của
Trung Đoàn: Anh Ba Hẩm là anh ruột của đ/c Sáu Hân nguyên là chủ tịch ủy ban
nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Má chị Năm Phượng là em ruột má chị Hai Nhị (Trương Thị
Thắm). Chồng chị Hai Nhị phó ban an ninh khu hi sinh năm 1968 để lại 2 đứa con
là Phương và Tài. Chị Hai Nhị sau khi hòa bình là trưởng phòng cảnh sát kinh tế
công an tỉnh Đồng Tháp rồi chuyển ngành qua làm giám đốc công ty du lịch tỉnh Đồng
Tháp. Chị Hai Nhị có mấy người em: chị
Tư Bê, chị Sáu Hoàng, cô Tám Hà, chú Mười Toại và cô Út Nguyện . Đây là một đại
gia đình cách mạng. Sau này tất cả mọi người đều trở thành “người nhà” của 207.
“Nguyện vọng” của anh năm Thắng được chi bộ chấp thuận và tôi trực tiếp báo cáo với anh Lê Chư bí thư Đảng ủy kiêm chính ủy Trung đoàn 207. Anh Lê Chư ủy quyền cho tôi gặp gia đình chị Út Dúng trước rồi báo cáo cho Đảng ủy Trung đoàn.
Nhận xét
Đăng nhận xét