12. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên
Ngày
6/6/1970 đến lượt Trung đội 3 và tôi được phân công cùng đi (Lúc này cũng mới
được bổ sung quân số và vũ khí) nên gom hết hoả lực toàn Trung đội 9 khẩu (6
B40 + 3 B41). 18 tay súng của Trung đội cộng thêm tôi và 1 liên lạc. Cả thảy 20
người lặng lẽ rời đơn vị cắt đường rừng ra hướng lộ.
7 giờ
sáng chúng tôi ra tới ven lộ. Phải mò mẩm để chọn địa hình thuận lợi nhất, bất
ngờ nhất. Tôi và đồng chí Phỏng quyết định chọn một khoảng rừng tương đối thưa
cây có tầm nhìn độ 70 mét thẳng ra ngoài lộ. Điều này có lợi cho ta khi khai hoả
không bị vướng cây rừng. Cho chắc ăn Tôi và đồng chí Phỏng Trung đội trưởng
Trung đội 3 đến từng chỗ bố trí hoả lực lấy đường ngắm thử ra tận mặt đường. Mỗi
khẩu súng đem theo 2 quả đạn, một lắp trong súng và một quả dự phòng. Để đảm bảo
an toàn tuyệt đối cho bộ đội tôi quyết định: Mỗi khẩu chỉ bắn một quả rồi rút
ngay. Ý tưởng của tôi: “ Nếu 9 quả đạn xuyên thép, đạt hiệu xuất 50% thì đã thịt
được 4 đến 5 xe rồi”.
9 giờ
mũi càn hành quân của địch đã cách chúng tôi chừng 2km. Trên trời là máy bay trực
thăng và lũ phản lực quần đảo. Dưới đất là Trung đoàn thiết giáp 111 của Mỹ, gần
trăm xe tăng ầm ĩ tiến trên mặt đường về hướng trận địa chúng tôi. Tiếng động
cơ xe tăng và tiếng xích sắt càng lúc càng rõ.
Khoảng
9 giờ 30, đoàn xe tăng địch đã lọt vào trận địa phục kích và lần lượt lướt qua
trước mặt từ trái qua phải. Chúng tôi nhìn rõ những chiếc M48 có tháp pháo nghền
nghễn và khẩu trọng liên 12ly 7. Xung quanh tháp pháo là cả chục lính Mỹ, và ngụy
Sài gòn “chễm chệ”, súng lăm lăm trên tay.
Đoàn
xe cứ lần lượt lướt qua. Tiếng xích sắt nghiến “ken két” nghe đến rợn óc.
Chiếc
xe đi đầu đã đến đúng tầm bắn của khẩu B41 do đồng chí Phỏng (Tranh của lính)
trực tiếp làm xạ thủ chặn đầu.
Một tiếng
“ùng” phát ra từ khẩu B41. và “oàng” ngay ngang thân chiếc M48. và lần lượt 8
khẩu hoả lực từ 8 vị trí đều phóng đạn bay ra mặt đường. Lập tức lũ bộ binh nhảy
khỏi xe nằm rạp xuống . Những khẩu pháo tự hành, trọng liên 12 ly 7 quay nòng
sang hướng chúng tôi nhả đạn. Đạn nhọn 12 ly 7, AR15, cứ phầm phập cắm vào những
thân cây quanh chúng tôi. Đạn M79 nổ chát chúa. Bộ đội ta nhanh chóng rút quân.
Nhờ có ý thức từ trước nên độ 7 phút sau chúng tôi đã rời trận địa cách vài
trăm mét. Bom địch từ những chiếc phản lực,
rốc két từ lũ máy bay lên thẳng, pháo tự hành từ những chiếc xe tăng bắn tan
nát cả khu rừng mà cách đó chỉ ít phút còn lặng lẽ, im lìm . “Một sự hủy diệt
thật ghê gớm”.
Chúng
tôi về tới hậu cứ an toàn chỉ có 2 đồng chí bị thương nhẹ do vấp phải cây rừng.
Rồi cứ
liên tiếp đến chiều mũi càn của địch thêm 2 lần phải ném bom, bắn pháo vì vấp
phải trận địa phục kích của Đại đội 5 + 7.
Chiều
tối hôm đó tiểu đoàn thông báo đoàn xe tăng địch bị bắn cháy gần chục chiếc
trên các trận địa của tiểu đoàn 2 đã “thưởng” cho chúng (Tiểu đoàn mà sau này
là nòng cốt thành lập Trung đoàn 207).
Vậy là
ngày hôm đó Tiểu đoàn chỉ mất chưa đầy 50 quả đạn mà đã diệt được 7 xe tăng địch,
mấy chục tên Mỹ ngụy. Đổi lại địch tiêu hao không biết bao nhiêu là đạn nhọn,
M79, đạn pháo tự hành của xe tăng, rốc két, bom .
Ta hi
sinh 5 đồng chí (Ở Đại đội 5+7).
Thất bại trong trận đánh càng làm cho Bộ chỉ
huy chiến dịch cuộc “càn móc câu”, hay còn gọi là trận “càn Đông dương” của bọn
Mỹ ngụy tức tối như “bò đá”. Gợi nhớ lại 2 câu thơ được nhân dân Miền Nam trìu
mến tặng cho bộ đội quân giải phóng.
“Đạn của
Mỹ vãi ra như cát.
Đạn
Bác Hồ mỗi phát mỗi khiêng”.
Nhận xét
Đăng nhận xét