69. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên

4h sáng, trận địa cối 82 và ĐKZ 75 của trung đoàn và 3 tiểu đoàn phối hợp với cối 61 của các đại đội bộ binh được lệnh khai hỏa. Cả 4 vị trí quân địch cặp sông Sở Thượng nhì nhằng chớp lửa xen lẫn những âm thanh ì ầm. Cối 120 ly của Z10 cũng đề pa chi viện. Đồn Cái Sách, Cầu Tiểu, Cầu Đại, Cầu Muống chìm trong khói đạn.

            Sau 30 phút pháo binh ta dồn dập bắn phá, bộ đội ta được lệnh xung phong. Những quả  bộc phá sào và mìn DH10 nổ tung nhiều đoạn dây kẽm gai của địch. Bộ đội ta nhất loạt xông lên theo hướng cửa mở. Phát hiện xung lực ta, hỏa lực của địch trong đồn bắn ra như vãi đạn. Bãi mìn quái ác có chiều rộng mấy chục mét bao quanh đồn địch dù đã được pháo binh giúp phá hủy phần nào, vẫn còn khá dày đặc, đã gây cho bộ đội ta nhiều thương vong, nhiều đ/c trúng mìn cụt cả 2 chân.

            5h sáng cả 4 trận địa báo về bộ đội ta vẫn chưa đánh chiếm được cửa mở. Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn “chuyển sang chiến thuật vây ép”. 5h30, pháo 155 ly từ Hồng Ngự và Tân Châu bắn như đổ đạn xung quanh các trận địa ta (cứ như thể pháo binh của chúng đã can tọa độ sẵn từ trước nên chỉ ngay các loạt đạn đầu, pháo của địch đã nổ gần hàng rào dây kẽm gai sát các công sự, ụ súng của bộ đội). Từ 4 trận địa tiếp tục báo cáo về sở chỉ huy. “bộ đội lại thương vong do các loạt đạn pháo của địch với độ chính xác gần như tuyệt đối”.

            Từ mấy trận địa DKB (hỏa tiễn tầm xa) của Z10 được lệnh khai hỏa. Hàng chục quả tên lửa xé gió lao đi (chắc các chiến sĩ pháo binh ta cũng đã can tọa độ sẵn từ trước) nên chỉ sau ít phút các trận địa báo về :” Pháo binh địch đã giảm cường độ bắn phá”.

            Suốt ngày hôm đó 2 cụm pháo địch ở Tân Châu và Hồng Ngự hầu như “lặng tiếng” vì  biết rất rõ sự bất lợi của chúng. Trận địa pháo địch là cố định. Trận địa của ta lại thường xuyên di chuyển rất linh hoạt nên khi 2 bên đấu pháo thì trận địa của chúng sẽ  “lãnh đủ”.

            Đêm 21/1/1973, bộ đội ta được hậu cần trung đoàn  tiếp tục bổ sung đạn dược, số liệt sỹ ngoài mặt trận cũng được dân công hỏa tuyến huyện Hồng Ngự giúp đỡ đưa về phía sau.

            Hình ảnh của chị Hai Kim Cúc huyện đội phó huyện Hồng Ngự mặc bộ quần áo bà ba đen, đội mũ tai bèo màu xanh da trời, ngang lưng đeo khẩu súng ngắn chỉ huy đoàn dân công hỏa tuyến, vừa vận chuyển đạn ra trận địa rồi lại tải liệt sỹ về mai táng  gần kinh Ba Nguyên, tới bây giờ vẫn còn như in trong tâm trí tôi, với lòng cảm phục sâu sắc. Chị như một hình ảnh đại diện cho những vị nữ chỉ huy của đội quân bà Định, dòng dõi của những Bà Trưng, Bà Triệu, hiền hòa mà dũng mãnh…Trên chiến trường Miền Nam, các chị các em, rất xinh đẹp mà khí phách ngang trời, đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách cùng Dân tộc.

   “ Em đẹp lắm như mùa Xuân bừng dậy

      Súng trên vai cũng đẹp như Em

     Em ơi, sao tóc Em thơm vậy?

    Hay Em đi qua vườn Sầu riêng…

      …..

      Em là du kích, Em là giao liên

      Em chính là Quê hương ta đó

       ……..

      Chỉ có trái tim chung thủy sắt son

      Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.” – Lê Anh Xuân – 1965

 

            Tại sở chỉ huy trung đoàn, không khí hết sức căng thẳng, anh Năm Thắng và anh Sáu Hiền chủ nhiệm thông tin theo sát 4 máy PRC25 luôn có những thông tin viên liên tục nhận những báo cáo từ trận địa, và truyền đi những mệnh lệnh khẩn cấp của chính ủy và trung đoàn trưởng. Tôi cũng không rời  đài 15 w cùng các đ/c báo vụ tiếp nhận những bản mật mã: “Toàn những con số, ký hiệu” rồi chuyển ngay cho bộ phận cơ yếu do đ/c Sở phụ trách mở mật mã rồi báo cáo BCH trung đoàn. Chính từ nơi này, những mệnh lệnh cần thiết và kịp thời sẽ quyết định thành bại của trận đánh.

            Để hạn chế đến mức thấp nhất thương vong của bộ đội. Quân khu chấp nhận cho trung đoàn vẫn tiếp tục dùng chiến thuật vây ép. Một đơn vị xe tăng T34 của ta được quân ủy Miền tăng cường cũng đã đến ở một vị trí rất gần. Cả trung đoàn bừng lên một khí thế “đánh giặc lập công”, quyết tâm trả thù cho những cán bộ chiến sĩ đã hi sinh trong trận đánh cù lao Long Khánh, Long Thuận.

            Ngay đêm đó, bộ đội ta lại được lệnh áp sát hàng rào tiếp tục đào công sự và giao thông hào. Cả 4 đồn địch mỗi đồn chỉ cách nhau khoảng 2 đến 3 km nhưng không tài nào chi viện được cho nhau. Chúng tự biết số phận như “cá nằm trên thớt”.

            Tiếp theo...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

1- Hồi ức của 1 quân nhân VNCH trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây nam

1 - NGÃ 3 CHÓP - BIÊN GIỚI TÂY NAM HƯỚNG SƯ ĐOÀN 7 BỘ BINH

1. Sư đoàn 341- đoàn Bộ Binh SÔNG LAM - Biên giới Tây Nam