67. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên

Sau trận đánh tại cù lao Long Khánh, Long Thuận, toàn bộ trung đoàn lui về hậu cứ(trên đất ban CPC) tiếp tục huấn luyện, chỉnh huấn, chỉnh quân. Rất nhiều tân binh mới được bổ sung vào thay thế quân số bị hao hụt Vũ khí cũng được trang bị lại, có nhiều loại vũ khí mới, hiện đại được tăng cường. Đ/c Ba Trắc và đ/c Phạm Dốc được điều về quân khu nhận nhiệm vụ mới.

            Đ/c Bảy Thàng được quân khu điều về làm trung đoàn trưởng, đ/c Lê Chư về làm chính ủy.

            Đ/c Xuân về làm trung đoàn phó, anh Tư Dẫu về làm phó chính ủy. Anh Vũ Nhụy (bác sĩ) về làm đại đội trưởng quân y (C23).

            Đầu tháng 11/1972, tôi được điều về làm chính trị viên  đại đội 20 (thông tin)

            Ban chỉ huy đại đội lúc này gồm có 4 người:

            Tôi làm chính trị viên.

            Anh Năm Rạng đại đội trưởng (anh quê ở Mỏ Cày, Bến Tre đi tập kết rồi trở lại chiến trường. Tuổi quân của anh lớn hơn tuổi đời của tôi tới 4 tuổi. Anh có dáng người cao, nước da sạm, tóc đã hoa râm, rất hiền và vui tính).

            Đ/c Cát làm chính trị viên phó.

            Đ/c Nói làm đại đội phó (đ/c Nói hiện đang sinh sống tại Vĩnh Long).

            Đại đội thông tin có 4 trung đội:

            Trung đội truyền đạt do đ/c Chúc làm trung đội trưởng.

            Trung đội hữu tuyến do đ/c Sáu làm trung đội trưởng (đ/c Sáu quê Thanh Hóa, sau này về làm quận đội trưởng quận 10 thành phố HCM, hiện nay đã nghỉ hưu).

            Trung đội vô tuyến (2 w) gồm máy PRC25 + T139 do đ/c Ngô làm trung đội trưởng, đ/c Nghiệp làm trung đội phó.

            Trung đội vô tuyến điện báo 15 w (T230), 7 w (Ấp Bắc) do đ/c Mậu làm trung đội trưởng.

            Khoảng cuối tháng 12/1972, anh Năm Rạng lại được điều về ban thông tin trung đoàn Ban thông tin trung đoàn lúc này có 2 đ/c cơ công là đ/c Diệu và đ/c Lập. (Đ/c Diệu quê Ninh Bình, hiện đang sinh sống tại tỉnh Long An và có người con gái là cháu Loan đang giảng dạy tại trường đại học kiến trúc TPHCM). Đ/c Diệu được đào tạo cơ bản tại Miền Bắc (chuyên ngành sửa chữa điện tử thông tin loại máy các nước XHCN sản xuất) vậy mà khi vào chiến trường,  trung đoàn phần nhiều lại sử dụng máy thông tin do Mỹ sản xuất (chiến lợi phẩm thu được sau trận đánh), lính miền Bắc vào chẳng hiểu “mô tê răng rứa” gì hết nên gặp rất nhiều khó khăn. Giữa chiến trường chẳng còn cách nào khác, đ/c Diệu đành cố gắng “mày mò” tự nghiên cứu, tự học. Với chiếc mỏ hàn đốt bằng đèn dầu, đ/c Diệu  đã cho “hồi sinh” rất nhiều máy PRC25. Kịp thời trang bị cho bộ đội  giữ vững “mạch máu thông tin”, giúp cho sở chỉ huy trung đoàn và các BCH tiểu đoàn ra những mệnh lệnh mang tính quyết định để dành thắng lợi cho từng trận đánh góp phần làm nên những chiến công lừng lẫy của trung đoàn… Thế mới biết bộ đội ta rất linh hoạt trong chiến đấu, đúng như các cụ xưa thường nói “cái khó ló cái khôn”. Khó khăn gian khổ, thiếu thốn, hiểm nguy, chưa bao giờ khuất phục được nhũng người chiến sĩ .

         Sau khi anh Năm Rạng chuyển đi, anh Năm Thắng từ thông tin quân khu được bổ sung về làm đại đội trưởng thay thế anh Năm Rạng (anh Năm Thắng quê ở Long An lớn hơn tôi 8 tuổi, từng tham gia phong trào sinh viên, học sinh Sài Gòn, nước da trắng hồng, rất bảnh trai).

            Thế đấy! “chiến tranh mà” cán bộ cứ thay đổi “xoành xoạch”. Nhất là ở các đại đội bộ binh. Cán bộ 1 năm có thể thay tới 4 lần (ngồi chưa ấm chỗ, ra trận đã hi sinh, lại phải thay người khác).

            Tiếp theo...

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

1- Hồi ức của 1 quân nhân VNCH trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây nam

1 - NGÃ 3 CHÓP - BIÊN GIỚI TÂY NAM HƯỚNG SƯ ĐOÀN 7 BỘ BINH

1. Sư đoàn 341- đoàn Bộ Binh SÔNG LAM - Biên giới Tây Nam