134. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên
Đầu tháng 1/1978 có một gia đình từ Cai Lậy, Tiền
Giang chở 1 chiếc quan tài bằng gỗ dày đến đơn vị để liên hệ xin lấy thi thể
người thân đã hi sinh gần 1 tháng đem về quê.
Liệt sỹ này (lâu quá tôi không nhớ
tên) thuộc lính trinh sát của sư đoàn tăng cường cho trung đoàn và hi sinh tại
biên giới trong 1 lần bị địch phục kích và được đồng đội mang về gần khu vực Gò
Pháo mai táng. Liệt sỹ chỉ còn mẹ và 4
chị gái nên được coi như “báu vật” của gia đình. Hôm ấy có gần chục cán bộ chiến
sĩ của tiểu đoàn trinh sát đã tháp tùng cùng gia đình đến vị trí… làm thủ tục…
rồi khai mộ. Tôi và đ/c Hợp, đại diện cho ban
chính trị đến tham dự và được chứng kiến những phút giây đau xót cảm động
của người mẹ và những người chị Liệt sỹ
Thi thể của liệt sỹ được gói bằng 1 tấm
nilon chôn sâu hơn 1m tại 1 Gò Đất gần khu vực Gò Pháo. Bởi biết chắc chắn là
người thân của mình (có bia bằng gỗ, tên tuổi, quê quán) nên khi thi hài của liệt
sỹ vừa đưa lên khỏi mặt đất là người mẹ và 4 người chị gái nhào đến ôm lấy xác
con, em khóc như mưa, bất chấp thi thể Liệt sỹ đang trong giai đoạn phân hủy mạnh
nhất…
Chiều hôm ấy, cơ quan chính trị trung
đoàn có tổ chức 1 bữa cơm tại nhà anh Cúc để thết đãi gia đình và anh em D
trinh sát, nhưng cả 5 mẹ con hình như
không ai đụng đũa. Nước mắt cư dầm giề nhìn về chiếc quan tài có người con, em
thân yêu đang nằm trong đó. Chúng tôi và cả số anh em trinh sát sư đoàn cũng chẳng
ai nuốt nổi cơm mặc dù đã gần một ngày chưa có cái gì vào bụng. Dù là lính chiến
biết bao lần nghẹn lòng nhìn đồng đội hi sinh, nhưng hình ảnh ấy ám ảnh chúng
tôi nhiều.
Chiến tranh biên giới vẫn tiếp tục
gia tăng nhưng Đảng, nhà nước vẫn có chính sách cho bộ đội về phép thăm gia
đình, người thân, đặc biệt là cánh sỹ quan cứ 2 năm 1 lần.
Ngày 15 /1/1978, tôi được cơ quan cán
bộ trao giấy phép năm (đợt 1 của năm 1978), tôi liền nhanh chóng bàn giao công
việc lại cho đ/c Thi rồi tức tốc về quê rước vợ tôi đi cùng (bởi từ khi cưới
nhau, vợ tôi chưa có dịp về thăm bố mẹ và người thân bên tôi).
Trên chuyến tàu Bắc Nam của thời kỳ bao cấp, mặc dù toa tàu chỉ có độ 60 ghế mà họ nhét lên cả trăm người, trong đó có gần 1/3 là bộ đội (của nhiều đơn vị vừa đi phép, vừa đi công tác). Vậy là cánh lính ta cùng nhau giăng võng bên trên để nhường ghế cho những người khác. Hơn chục chiếc võng buộc từ thanh để hành lý bên này, qua bên kia và thẳng tắp đung đưa… Nhìn cũng thật buồn cười… Nhiều lúc gặp các đ/c nhân viên toa tàu đi nhắc nhở…lính ta cuốn võng rồi…lát sau đâu lại vào đấy. Nhắc chán, các đ/c nhân viên kiểm soát đoàn tàu cũng phải “chịu thua” rồi mặc kệ… thông cảm cho những người lính ngủ võng trên rừng Trường Sơn quen rồi…
Nhận xét
Đăng nhận xét