97. Hồi ký chiến trường - Vũ Trung Kiên
Ngày
4/10/1974 tại sở chỉ huy trung đoàn cụm đài 2W gồm 4 máy, liên tục nhận những
thông tin từ tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 báo về và truyền đi những mệnh lệnh của
đ/c Năm Thời trung đoàn trưởng và đ/c Ba Trứ chính ủy. Chúng tôi biết tình hình
trận địa tiền duyên rất căng thẳng. Tiểu đoàn 1 + tiểu đoàn 3 đang chiến đấu
phòng ngự đánh địch tại bờ bao kênh Mỹ Hòa, địch dùng cả xe bọc thép M113, 2 trận
địa pháo Mỹ An bắn như vãi đạn vào trận
địa D1 và D3. hỏa lực của trung đoàn gồm cối 82, DKZ75 được lệnh bắn chi việc
cho 2 tiểu đoàn (Các bạn có thể xem các bài viết của Hồ Tĩnh Tâm CCB E207 về trận
đánh chống càn tại bờ bao Mỹ Hòa đã đăng
trên trang web 207)
Sau gần
20 ngày liên tục chiến đấu với trung đoàn 10, sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn, có
xe tăng, xe bộc thép, máy bay yểm trợ, ta vẫn giữ vững trận địa. Địch vẫn không
thể nào chiếm nổi bờ bao Mỹ Hòa, ngày
21/10/1974, sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn
đã phải lặng lẽ lui quân.
Vậy là
tại trận đánh chống càn tại bờ bao Mỹ Hòa - Đồng Tháp Mười, trung đoàn 207 đã
đánh thiệt hại nặng, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn,
giữ vững vùng căn cứ cách mạng của quân
khu 8, giáp ranh 3 tỉnh, Kiến Phong, Kiến Tường, Định Tường, tiêu hao, tiêu diệt
nhiều sinh lực địch, làm cho bọn địch xung quanh khu vực này hoang mang tột độ.
Sau trận
đánh chống càn tại bờ bao Mỹ Hòa trung đoàn bộ về đứng chân tại kênh Cái Lân
(khu vực này là đất địa của tỉnh Định Tường, nhưng lại giáp ranh tỉnh Kiến
Phong, Kiến Tường).
Một
trung đoàn chủ lực nằm trong đội hình sư đoàn 8 thuộc quân khu 8 về đứng chân tại
đây nên tỉnh ủy và tỉnh đội tỉnh Kiến Phong mừng vui ra mặt. Từ kênh Cái Lân
chúng tôi có thể cơ động qua kênh Sáng Phèn, kênh Nước Mắm, Nguyễn Văn Tiếp, kinh
Nhất, Kênh Dương Văn Dương, kênh Cổ Cò rồi tỏa đi 4 hướng để đánh địch.
Xung
quanh khu vực này có các đồn của địch là đồn Kinh Nhất, đồn Gãy, đồn Bà Vững, đồn
Cổ Cò, đồn Chín Cai, đồn Thanh Mỹ và đồn Ngã Sáu…
Ngay từ
khi mới về đứng chân trung đoàn đã điều 3 tiểu đoàn bộ binh ra án ngữ và khống
chế các đồn địch buộc chúng phải nằm co lại trong đồn, không dám “mò” ra lùng sục
như trước. Do vậy, vùng giải phóng và căn cứ cách mạng của tỉnh Kiến Phong và
Đinh Tường, Kiến Tường được bình yên và luôn tưng bừng náo nhiệt.
Nhân
dân bắt đầu về sửa lại nhà cửa cho rộng rãi thông thoáng hơn. Các tiệm buôn bán
tạp hóa cũng đầy ấp hàng tiêu dùng chẳng thiếu thứ gì có cả Lave (bia Con Cọp uống
rất ngon và thơm).
Tại
kênh Sáng Phèn có tiệm tạp hóa của má Mười Ngài (một gia đình cách mạng kỳ cựu,
chồng của má và các con đều đã hi sinh chỉ còn một cô con gái út tên là Bé
Nhanh rất xinh đẹp phụ má bán hàng).
Cửa hàng của má lúc nào cũng đông đặc khách mà phần nhiều là cán bộ chiến sĩ Quân Giải Phóng của đủ các đơn vị 207, tỉnh đội, 320, 24, 88 và anh em đủ cả các miền quê: miền Bắc, miền Trung, miền Nam và cả anh em Việt kiều bên CPC. Vì là gia đình cách mạng “nòi” nên khi lớn tuổi má lấy việc buôn bán để “ngầm” cung cấp hàng hóa cho “đằng mình”. Hàng của má bán rẻ như cho nên các chiến sĩ ta khi ngang qua đây đều ghé mua hàng và đều được má gọi bằng 2 tiếng thân thương: “các con”. Để tỏ lòng biết ơn má anh em chúng tôi đã công khai gọi má là: “bà má Đông Dương” và từ đó cái tên này mãi mãi ghi sâu trong tâm trí mọi người…
Nhận xét
Đăng nhận xét